Ảnh: The Economist
Từ một viễn cảnh dân chủ với một tương lai tươi đẹp có được năm 1991, nước Nga kết thúc bởi chế độ độc tại mafia của Putin. Đây không phải một sự kiện diễn ra ngẫu nhiên, nó là kết quả của lối làm chính trị vụng về, vô tổ chức và thiếu một dự án chính trị nghiêm chỉnh. Hậu quả của tiến trình dân chủ hóa thất bại thì quá rõ. Nga là đất nước rộng nhất thế giới với 145 triệu dân. Nó có nguồn khoáng sản phong phú và có một nền văn minh tương đối. Ngày nay, Nga là một nước hầu như không biết sản xuất, chế tạo. Hoạt động kinh tế của Nga chủ yếu là khai thác dầu mỏ, than đá và khí đốt. Nga tụt hậu hơn rất nhiều so với các nước châu Âu khác và thế giới nói chung, đang không ngừng vươn lên về công nghệ-kĩ thuật... Chúng ta rút ra được bài học gì từ nước Nga ?
“Làn Gió” không mang lại đổi thay!
Tôi đặt bút viết những dòng này vào ngày cuối cùng của năm 2018. Đây là thời khắc mà người ta thường nhìn lại rõ những gì đã xảy ra trong năm cũ, cũng như đón đợi mọi sự tốt đẹp nhất của một năm mới. Với một thiểu số ít ỏi những người Việt quan tâm đến đất nước như chúng ta, chắc hẳn không có một mơ ước nào to lớn hơn mơ ước về một đất nước Việt Nam dân chủ, tự do. Vào thời điểm này tôi thường nghe lại ca khúc nổi tiếng “Wind of Change” (tạm dịch “Làn gió đổi thay”), bài hát mà tôi nghe lần đầu tiên không phải trên một kênh đài phương Tây, mà trên Đài Phát thanh Tiếng Nói Việt Nam chuyên mục nhạc ngoại. Bài hát được sáng tác bởi nhóm trưởng của ban nhạc Đức Scorpions Klaus Meine và được ban nhạc này trình diễn rất thành công, Nó được công bố trước công chúng vào ngay tháng một năm 1991, sau cuộc đảo chính Gorbachev của quan chức Liên Xô thất bại dẫn đến sự sụp đổ của toàn bộ khối Liên Xô.
“Wind of change” là một bài hát Anh ngữ hiếm hoi ghi lại sự hân hoan, niềm hưng phấn vào thời khắc Liên Xô bắt đầu có dấu hiệu rung chuyển. Vào tháng 8 năm 1991, các thành viên trong chính quyền Liên Xô tìm cách đảo chính lật đổ Gorbachev và đã hạ bệ ông trong một thời gian ngắn ngủi. Sự kiện này đã giáng đòn cuối cùng vào chế độ cộng sản Liên Xô, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của nó. Vào ngày 21 tháng 12 năm 1991, bản tin ngắn trên truyền hình Nga bắt đầu với một tuyên bố dõng dạc: “Chào buổi tối. Đây là chương trình thời sự. Liên Xô không còn tồn tại”. Đến ngày Giáng Sinh 25 tháng 12 năm 1991, một ngày cuối năm sương tuyết, lá cờ đỏ búa liềm bị hạ xuống sau 70 năm ngự trị trên nóc điện Kremli. Vào sáng hôm đó, Mikhail Gorbachev từ chức khỏi vị trí chủ tịch Liên Xô. Thực ra, cũng không chính xác lắm khi nói Gorbachev từ chức chủ tịch Liên Xô, vì 11 nước trong khối Cộng Hòa Xô Viết đã thành lập một liên minh độc lập (CIS) ly khai khỏi Liên Bang Xô Viết, đánh dấu sự chấm hết của Liên Bang này với tư cách là một khối. Trong diễn văn từ chức của mình, Gorbachev nói:
“Chúng ta đã có tất cả mọi thứ, đất đai, mỏ dầu, khí tự nhiên và các tài nguyên thiên nhiên khác. Chúng ta cũng có đầy những trí tuệ và tài năng. Tuy nhiên, chúng ta có cuộc sống tồi tệ hơn nhiều nước công nghiệp hóa và chúng ta đang thụt lùi đằng sau họ. Lý do thật nhà hiển nhiên. Đất nước này đã bị bóp nghẹt bởi xiềng xích của hệ thống chỉ huy quan liêu. Chúng ta bị cuốn vào ý thức hệ, chịu đựng gánh nặng khổng lồ của cuộc đua vũ trang, những điều đó đã dẫn tới bước ngoặc ngày hôm nay.”
Gorbachev thừa nhận những cuộc cải tổ nửa vời của ông đã thất bại hoàn toàn, nước Nga nay cần phải được hưởng tự do, dân chủ và loại bỏ chế độ độc tài đã ngăn chặn Nga trở thành một nước giàu có và phồn vinh bấy lâu nay.
Như vậy, vào khoảng thời gian này 27 năm về trước, chế độ Liên Xô chính thức sụp đổ. Đây là một trong những sự kiện được đánh giá là quan trọng nhất của thế kỉ trước. Nó đánh dấu sự chấm hết của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới sau thế chiến thứ Hai. Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ hầu hết mọi nơi trên thế giới, hoàn toàn tại Nga và Đông Âu. Khối Xô Viết tưởng chừng vững chắc là vậy nhưng rồi đã tan rã sau 74 năm thành lập và sự kiện này cũng đánh dấu hồi kết của thời kì chiến tranh lạnh kéo dài khoảng gần nửa thế kỷ giữa hai khối siêu cường Mỹ và Liên Xô. Vào thời điểm này, tâm lý chung của người Nga là hướng tới một xã hội dân chủ và phồn thịnh, cộng đồng thế giới đón đợi một nước Nga mới, thân thiện và có nhiều đóng góp tích cực cho thế giới. Ca khúc “Wind of Change” cũng gửi gắm ước mơ đó; một thế giới không còn sự thù địch, mọi quốc gia coi nhau như những người anh em.
Tuy nhiên, ngày nay nước Nga đã đi theo một hướng hoàn toàn khác, hoàn toàn trái ngược với mong ước của thế giới vào thời điểm bấy giờ. Nó không dân chủ cũng chẳng thân thiện hơn. Hôm nay nước Nga vẫn là một nước độc tài tập trung quyền lực vào tay tổng thống Nga Vladimir Putin. Với một đội ngũ tư bản thân hữu trung thành, Putin thành công trong việc kiểm soát hệ thống tư pháp, truyền thông, Công Giáo Chính thống và đàn áp đối lập. Nga vẫn tiếp tục cấm các nhân vật đối lập tham gia tranh cử và chỉ riêng tháng tư và tháng năm, chính quyền Putin đã hạ sát hai nhà báo bất đồng chính kiến. Với cộng đồng thế giới, Nga không hề bày tỏ một chút thiện cảm nào. Từ năm 2014 sau cuộc cách mạng Maidan tại Ukraine, Nga đã cưỡng chiếm bán đảo Crimea thông qua một cuộc trưng cầu dân ý bất chính. Nga không ngừng tài trợ cho hai nước cộng hòa tự xưng là Donetsk và Luhansk tại miền Đông Ukraine. Vào năm 2015, Nga nhân danh chống khủng bố, can thiệp quân sự vào Syria để trợ giúp cho chế độ diệt chủng của Bashar al-Assad và tăng cường sự hiện diện của mình tại Trung Đông. Không chỉ thế, vào năm 2016, Nga tiếp tục can thiệp mạnh tay vào chính trị phương Tây điển hình là hành động can thiệp vào bầu cử tổng thống Hoa Kì và đầu độc hai công dân Anh.
“Wind of Change” hóa ra không mang đến sự đổi thay cho nước Nga như ý nghĩa của nó. Trái với hưng phấn ban đầu của thời khắc Liên Xô sụp đổ, nước Nga thu về một chế độ độc tài khác. Rõ ràng, nước Nga không hề dân chủ và thân thiện hơn sau làn sóng dân chủ thứ ba quét sạch chủ nghĩa cộng sản khỏi phần lớn của thế giới.
Tại sao dân chủ hóa thất bại tại Nga?
Nước Nga đã đứng trước một cơ hội đổi đời, nhưng nó đã thất bại trong cuộc chuyển hóa về dân chủ, để rồi cuối cùng bị cai trị bởi một chế độ độc tài mafia của Putin. Có phải ngẫu nhiên mà nước Nga thất bại dân chủ hóa?
Để giải đáp câu hỏi này, đầu tiên chúng ta hãy cùng trở lại trường hợp Gorbachev, một nhân vật ít nhiều có yếu tố quyết định tới sự sụp đổ của Liên Xô và mở ra một kỷ nguyên mới cho thế giới. Nhiều người cho rằng chúng ta phải cảm ơn Gorbachev, vì ông là người chính thức khai tử chế độ cộng sản Xô Viết. Dù người ta có nhiều quan điểm khác nhau về ông, không thể phủ nhận rằng ông dũng cảm vì ông dám nói ra một phần sai lầm của mình trong khi giới chính trị gia thường hiếm khi thừa nhận lỗi lầm của họ. Gorbachev đã từng thừa nhận cộng sản là một thứ chủ nghĩa dối trá, bịp bợm và cả nửa đời ông đã phục vụ cho sự dối trá, bịp bợm ấy. Ông đã từng tuyên bố, đáng lẽ ra ông phải rời khỏi cái đảng ấy sớm hơn thế. Nhiều người từng chỉ trích Gorbachev là thành vẫn hữu khuynh trong đảng cộng sản, cho rằng ông là người đã phản bội lại lý tưởng của mình, để cho chế độ cộng sản Liên Xô sụp đổ. Tuy nhiên, Gorbachev không hề muốn Liên Xô sụp đổ, thậm chí ông còn là một trong những người cộng sản trung kiên nhất bảo vệ Đảng.
Gorbachev là một sản phẩm của chế độ, ông trở thành nhà lãnh đạo tối cao của Liên Xô không phải nhờ thân phương Tây, mà bằng cách thăng tiến trong bộ máy của Đảng. Gorbachev lên cầm quyền vào năm 1985, thời điểm Liên Xô và khối cộng sản gặp nhiều khó khăn lớn. Người tiền nhiệm của ông Leonid Brezhnev đã đánh đổi hết nguồn tiền mà Nga thu được từ thập kỉ vàng của dầu mỏ (1960-1970) để chi viện cho các cuộc chiến bành trướng ảnh hưởng của Liên Xô tại chiến trường Trung Đông và chạy đua vũ trang với Hoa Kì. Khi giá dầu mỏ thế giới tụt dốc thì Liên Xô rơi vào tình trang chao đảo khó khăn về kinh tế và xã hội, nhà nước hoàn toàn kiệt quệ về tài chính. Trong khi đó, sự nhất trí trong nội bộ khối Cộng Sản đã suy yếu đi trông thấy, đảng cộng sản tại nhiều nước đều trên tâm thế rã hàng và Liên Xô không còn đủ sức can thiệp quân sự hay viện trợ để cứu các quốc gia vệ tinh Đông Âu của mình một khi cách mạng xảy ra. Bản thân đảng cộng sản Liên Xô cũng lung lay và tê liệt. Trước những tình hình đó, Gorbachev được chọn để tiến hành một cuộc cải tổ bắt buộc để cứu lấy một chế độ đang có nguy cơ sụp đổ.
Có hai chính sách quan trọng mà Gorbachev đã thực hiện. Ngay khi lên cầm quyền Gorbachev đề xuất giảm 50% việc vận hành vũ khí hạt nhân và hướng về kết thúc chiến tranh lạnh dù không được chấp thuận hoàn toàn. Năm 1988, chính quyền Gorbachev đã cho phép các cá nhân được kinh doanh quy mô nhỏ như các cửa hàng và tiệm ăn, quán café dưới chính sách Perestroika (Tái Thiết). Theo nghĩa đó, tư nhân được phép hoạt động và thu về lợi nhuận dù nhà nước vẫn kiểm soát mức giá và phần lớn các phương tiện sản xuất. Các doanh nghiệp nước ngoài bắt đầu được phép hoạt động ở Liên Xô. Như năm 1990, người ta thấy cửa hàng Mc Donald đầu tiên được mở tại Moscow.
Glasnost (Mở/ Minh Bạch) cho phép đất nước tự do hơn về mặt chính trị, việc chỉ trích đảng cộng sản và các quan chức diễn ra công khai khiến nhiều quan chức phải từ chức. Vào đại hội thứ 19 của Đảng năm 1988, điều 6 Hiến Pháp quy định đảng cộng sản là lãnh đạo duy nhất của đất nước đã bị hủy bỏ. Các đảng phái bắt đầu được hoạt động tự do, mở rộng thảo luận và bầu cử. Và lần đầu tiên các đảng viên đảng cộng sản bội thất của tại địa phương.
Gorbachev đã được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình vì ông đã tạo điều kiện thuận lợi để bức tường Bá Linh sụp đổ trong hòa bình. Ông đại diện cho thế hệ lãnh đạo Liên Xô đầu tiên sinh ra sau thế chiến thứ nhất, trẻ trung và ít giáo điều. Gorbachev cũng được xem như một nhân vật thân thiện với phương Tây. Tuy nhiên, trong mọi phát ngôn trước công chúng và báo chí phương Tây Gorbachev đều “lên án mạnh mẽ” mọi âm mưu phá hoại sự ổn định và cầm quyền của đảng cộng sản và khối Liên Bang Xô Viết. Gorbachev chưa bao giờ có ý định dẹp bỏ đảng cộng sản và dân chủ hóa đất nước, cuộc cải tổ của ông được thực hiện nhằm mục đích cứu vớt đảng cộng sản. Các chính sách cải tổ như Glasnost hay Perestroika của Gorbachev hầu hết đều nửa vời nhằm giúp đảng cộng sản Liên Xô ứng phó với những tình huống khẩn cấp của thời đại. Nhưng thay vì cứu được Đảng Cộng Sản Liên Xô, các cải tổ trên góp phần đẩy nhanh mâu thuẫn và quá trình sụp đổ của nó.
Sau khi Gorbachev từ chức, đất nước Nga bước vào một giai đoạn chuyển tiếp cực kì quan trọng. Chính quyền mới một mặt phải giải quyết những hậu quả to lớn do chế độ cộng sản để lại, một mặt phải tiến hành công việc dân chủ hóa đất nước. Vào thời điểm này, không khí lạc quan dân chủ tràn ngập nước Nga bất chấp những khó khăn hiện tại về kinh tế, đại đa số dân chúng đều đồng thuận rằng nước Nga cần đi đến việc dân chủ hóa đất nước. Tuy nhiên, một điều nghịch lý là giới đối lập Nga hoàn toàn không có một sự chuẩn bị nào để đáp lại nguyện vọng dân chủ của nhân dân và cho cuộc chuyển hóa vĩ đại này.
Yeltsin là một cựu quan chức cộng sản sau trở thành một chính trị gia đối lập và được bầu là tổng thống đầu tiên của Nga sau khi Liên Xô sụp đổ. Có lẽ thực tâm ông mong nước Nga có được dân chủ như phần lớn các nước phương Tây. Tuy nhiên, cũng như các lãnh đạo Nga thời hậu cộng sản khác khác, Yeltsin thuộc về một tầng lớp thế hệ cũ còn chưa dứt khoát được tâm lý độc tài. Ông không có một tư tưởng, một viễn kiến nào cho nước Nga dân chủ hết sức mới mẻ này, ông cũng không có một đội ngũ chính trị đủ để thực hiện cuộc chuyển hóa về dân chủ. Dưới sự lãnh đạo của mình, Yelstin có tới bốn lần thành lập các chính phủ. Các chính quyền này đều tồn tại trong ngắn hạn và thất bại.
Sau khi lên nắm quyền, Yeltsin cho mời một nhóm trí thức bởi Igor Timirovich Gaidar tham gia chính quyền để giải quyết bài toán kinh tế của Nga. Một thời gian không lâu sau đó, Yeltsin loại Gaidar khỏi chính quyền để liên minh với nhóm quan chức cựu cộng sản Viktor Chernomyrdin khi các chính sách cải tổ được đề xướng bởi Gaidar vẫn đang được tiến hành dang dở.
Năm 1993 chứng kiến những căng thẳng trong chính trường Nga. Các chương trình cải cách kinh tế nửa vời của Yeltsin làm tình hình kinh tế xấu đi (năm 1992 tăng trưởng kinh tế chạm đáy -19%). Nhiều chính trị gia ra mặt chống chính sách cải tổ nửa vời của Yeltsin, yêu cầu một cải tổ triệt để. Điều này dẫn đến một cuộc tranh chấp quyền lực giữa tổng thống và Quốc Hội và cuối cùng kết thúc bằng một cuộc bạo lực khiến tới hàng trăm người chết và bị thương. Để dàn xếp cuộc khủng hoảng năm 1993, Yeltsin mời Gaidar trở lại thành lập một chính quyền mới mà thực chất chỉ nhằm mục đích ổn định tình hình và bảo toàn hình ảnh của Yeltsin như một nhân vật cải tổ trong con mắt của nhân dân Nga và cộng đồng quốc tế. Ngay sau khi tình hình ổn định, Gaidar bị buộc phải rời khỏi chính quyền.
Mùa hè năm 1997, Yeltsin thành lập một nhóm ‘những người cải tổ trẻ” gồm hai nhân vật tiêu biểu Anotoli và Boris Nemtsov. Nhóm này được thành lập để mang lại bộ mặt mới cho chính quyền Yeltsin, và một mặt vẫn tiếp tục thực hiện những chính sách cũ đã chứng tỏ thất bại từ những ngày đầu.
Vào tháng Ba năm 1998 khi thời điểm bầu cử bắt đầu đến gần, Yeltsin cho mời Sergei Kirienko về làm thủ tướng. Chính quyền Yeltsin-Kirienko cố gắng trong tuyệt vọng cải thiện tình hình và đối phó với sự bất mãn, chán nản của quần chúng ngày một dâng cao. Để rồi năm 2000, Yeltsin biết rõ là sẽ thất cử trong cuộc bầu cử tổng thống sắp đến nên đã “nhường ngôi” lại cho Putin. Cũng từ đây, nước Nga quay trở lại chế độ độc tài chống phương Tây.
Nước Nga tuột mất cơ hội chuyển hóa về dân chủ và quay trở lại thành một chế độ độc tài khác. Chúng ta có thể giải thích sự thất bại đó như thế nào? Vào thời điểm chín muồi của cuộc cách mạng dân chủ tại Nga, giới đối lập nước này hoàn toàn yếu ớt, họ hoạt động trong các tổ chức xã hội dân sự lẻ tẻ, không có năng lực tham gia vào tiếp quản đất nước Nga hậu cộng sản. Tại Nga thời điểm bấy giờ, hoàn toàn thiếu một tổ chức chính trị đối lập có uy tín và tầm vóc. Một điều nghịch lý là phần lớn những người tiếp quản nhà nước dân chủ mới thành lập là những cựu quan chức cộng sản, từ bỏ Đảng Cộng Sản để đứng về phía dân chủ đại diện bởi Yeltsin. Họ là những con người vụng về, thiếu viễn kiến và hoàn toàn không phù hợp để tiếp quản một đất nước chuyển tiếp lên dân chủ. Yeltsin không hề có lấy một đội ngũ, một tổ chức chính trị đàng hoàng, ông thành lập chính phủ bằng cách triệu tập những nhân vật cải cách vào chính quyền của mình, rồi lại sẵn sàng đuổi họ một cách tùy tiện. Chính quyền Yeltsin tiếp quản đất nước một cách vụng về và cẩu thả.
Yeltsin tiếp tục cho tư nhân hóa lĩnh vực công từ thời Gorbachev, với hy vọng sự phát triển của tư nhân sẽ thúc đẩy nền kinh tế. Nhưng ông thậm chí còn không đưa ra một định nghĩa cụ thể về mặt luật pháp như “tư nhân hóa” hay “sở hữu” là gì và phải được tiến hành như thế nào? Quá trình tư nhân hóa này đã giải giáp toàn bộ hệ thống kinh tế chỉ huy dưới thời Liên Xô, nhưng sự cẩu thả của chính sách tư nhân hóa đã dẫn tới sự hình thành của một tầng lớp tư bản cơ hội, những kẻ nhanh chóng chiếm đoạt các khối tài sản mà trước đây thuộc về nhà nước. Giới tư bản này nhanh chóng bắt tay với quyền lực chính trị, trở thành cái móng vững chắc cho một chế độ độc tài mới của Nga.
Sự vụng về của Yeltsin còn vô tình gây ra những cuộc xung đột sắc tộc không đáng có. Nga vốn là một nước có tình hình khá phức tạp về sắc tộc, Stalin còn làm tình hình đó phức tạp hơn bằng cách lưu đầy những người thuộc cộng đồng thiểu số khỏi lãnh thổ của họ. Vào những năm đầu của thập niên 90 Yeltsin cho phép những dân tộc thiểu số trở về vùng đất của mình. Đây là một quyết định được chào đón, tuy nhiên ông đã không lường trước được hậu quả rằng tranh chấp lãnh thổ có thể xảy ra. Cụ thể, sau chiến tranh lạnh, người Inguish bị Liên Xô kết án “hợp tác với phát xít”. Vào năm 1944, quân đội được triển khai để tiến hành trục xuất những người thuộc cộng hòa Inguish, mọi cố gắng chống trả đều dẫn tới cái chết. Họ bị mang đi tới Kazakhstan, vùng đất xa lạ cách hàng ngàn cây số từ quê hương của mình. Những người Ossetian sau đó đến sinh sống trên vùng đất trống và trở thành chủ sở hữu của vùng đất này. Vì không có sự tính toán kĩ lưỡng, cho nên khi những người Ingush được trở về vùng đất của họ vào tháng mười năm 1992 thì bạo lực, xung đột tranh chấp đất ngay lập tức xảy ra.
Từ một viễn cảnh dân chủ với một tương lai tươi đẹp có được năm 1991, nước Nga kết thúc bởi chế độ độc tại mafia của Putin. Đây không phải một sự kiện diễn ra ngẫu nhiên, nó là kết quả của lối làm chính trị vụng về, vô tổ chức và thiếu một dự án chính trị nghiêm chỉnh. Hậu quả của tiến trình dân chủ hóa thất bại thì quá rõ. Nga là đất nước rộng nhất thế giới với 145 triệu dân. Nó có nguồn khoáng sản phong phú và có một nền văn minh tương đối. Ngày nay, Nga là một nước hầu như không biết sản xuất, chế tạo. Hoạt động kinh tế của Nga chủ yếu là khai thác dầu mỏ, than đá và khí đốt. Nga tụt hậu hơn rất nhiều so với các nước châu Âu khác và thế giới nói chung, đang không ngừng vươn lên về công nghệ-kĩ thuật.
Chúng ta học được gì từ bài học dân chủ hóa thất bại của Nga?
Dù không có một sự tương đồng nào cụ thể giữa Gorbachev và ông Nguyễn Phú Trọng, tuy nhiên ông Nguyễn Phú Trọng hiển nhiên đang ở vị trí của Gorbachev và thực hiện những gì mà Gorbachev cũng từng làm. Trong năm 2018 vừa qua, ông Trọng trở thành người nắm giữ nhiều quyền lực trong đảng nhất, một lúc đồng thời giữ hai vị trí là Chủ tịch nước (người đứng đầu nhà nước) và Tổng bí thư (người đứng đầu đảng). Đứng trên đỉnh cao của danh vọng như vậy, ông Nguyễn Phú Trọng được Đảng giao phó thực hiện một cuộc cải tổ lớn và quan trọng để cứu đảng cộng sản Việt Nam mà nhìn ở đâu, từ góc độ nào cũng thấy nguy ngập.
Nhưng liệu ông Nguyễn Phú Trọng có đáp lại được sự tin cậy của Đảng và đưa Đảng của ông vượt qua sự nguy khó này không? Bản thân ông Trọng dường như cũng suy nghĩ nhiều về điều đó, trái với một sự lạc quan ngày nhậm chức, ông Trọng tỏ ra khá lo lắng. Ông cho rằng trách nhiệm trước mắt là “hết sức nặng nề” và ông không chắc rằng bản thân ông có thực hiện nổi những gì được giao phó không. Ông Tổng bí thư còn ngẫu hứng trích dẫn hai câu Kiều để minh họa cho tâm trạng cô đơn và lo lắng của mình:
“Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn
Khuôn xanh biết có vuông tròn hay không!”
Khuôn xanh biết có vuông tròn hay không!”
Ông Nguyễn Phú Trọng lo lắng như vậy cũng hoàn toàn có lý của mình. Bản thân ông biết mình không phải là một người kiệt xuất, cũng không có một thành tích gì cụ thể và cả đời ông chỉ biết đến Marx- Lênin, một tư tưởng đã lạc hậu, lỗi thời hàng thế kỉ. Một con người chỉ biết đến chủ nghĩa Mác Lê như vậy có thể làm gì trước một thế giới với đầy những biến động và đổi thay? Các chiến dịch chống tham nhũng để cứu vớt Đảng của ông liệu có thành công không? Đảng Cộng sản từ lâu đã không còn một lý tưởng nào, nó tồn tại như một liên minh các nhóm lợi ích và tham nhũng. Ông Trọng chống tham nhũng bằng cách đang đánh thẳng vào tử huyệt của chế độ. Nhìn vào lịch sử, hiếm thấy một chế độ độc tài nào thành công trong việc cải cách, các chế độ độc tài đều sụp đổ trong khi nó cố gắng cải cách và hẳn là công cuộc cải tổ đảng dưới sự lãnh đạo của ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng không phải là một ngoại lệ. Những cố gắng của ông Trọng chỉ là dã tràng xe cát biển Đông mà thôi!
Ông Trọng cố cứu lấy đảng để làm gì? Khó có thể tưởng tượng rằng ông làm vậy vì lợi ích, địa vị cá nhân. Ở độ tuổi của ông làm gì còn ai đủ sức để mơ tưởng đến quyền lực, địa vị hay tiền bạc. Nếu vì Đảng thì càng vô lý vì ông chẳng có lý do gì để cứu lấy một tập đoàn tham nhũng và không còn lý tưởng. Đảng cộng sản Việt Nam không còn có lý do để tồn tại vì ngày nay chẳng ai còn tin vào chủ nghĩa cộng sản. Ngay cả những đảng viên cũng đã bắt đầu từ bỏ, xa lánh Đảng mà một đời họ đã gắn bó. Ông cứu làm chi một đảng đã không còn một tương lai nào? Còn vì đất nước thì ông Trọng nên hiểu rằng con đường duy nhất của đất nước này là con đường dân chủ hóa. Như vậy, ông cần phải tạo điều kiện cho đất nước hướng về dân chủ hơn là cố giữ lấy Đảng của ông.
Vào thời điểm cuối năm nay, ông Nguyễn Phú Trọng tuyên bố đất nước đang đi lên, đảng và nhà nước giành được thắng lợi lớn về mọi mặt. Kinh tế tăng kỷ lục từ năm 2008, GDP ở trên mức 7.0%. Tuy nhiên, cũng ngay tại thời điểm đó, 152 du khách Việt Nam bất chấp thể diện và nguy hiểm, trốn lại ở Đài Loan để được làm lao động trái phép. Nếu đất nước đang thực sự đi lên như ông Trọng cho hay, vậy tại sao người dân tìm mọi cách bỏ nước ra đi? Tuyên bố của ông Trọng và báo cáo tăng trưởng của đảng cộng sản Việt Nam là một trò hề lố bịch, một sự bịp bợm công khai và thách thức. Thời gian sẽ chứng tỏ rằng những cố gắng cải tổ của ông Trọng chỉ đem đến sự thất vọng cho Đảng và lịch sử sẽ sang trang.
Thời cơ dân chủ hóa đất nước của Việt Nam đang đến gần trước mắt, bất kể thời gian tới ông Trọng có lựa chọn thế nào. Tuy nhiên, đây cũng là một thời điểm mà ý thức và trách nhiệm phải được đặt trên hết. Trí thức Việt Nam cần ý thức rõ ràng rằng họ sắp phải gánh vác một trách nhiệm cực kì lớn lao, họ sẽ là lực lượng chính đưa Việt Nam chuyển tiếp về dân chủ và mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước chúng ta. Nhưng đây cũng là một nhiệm vụ đầy thử thách vì chúng ta không được phép làm sai và không còn cơ hội sửa sai. Chúng ta là một trong những nước cuối cùng trên thế giới đang sống dưới chế độ độc tài, chúng ta đã chậm chân trong cuộc đua toàn cầu và nguy cơ tụt hậu vĩnh viễn là có thật.
Bài học về quá trình dân chủ hóa của nước Nga đắt giá với Việt Nam vì nó chứng minh cho chúng ta thấy rõ rằng lối làm chính trị không có tổ chức và thiếu vắng một “dự án chính trị” sớm muộn gì cũng đem tới thất bại. Để phong trào dân chủ Việt Nam thành công, nhất thiết chúng ta cần phải có một dự án chính trị được đặt trên những nền tảng đúng đắn với một tổ chức chính trị có tầm vóc để chuyên chở dự án chính trị đó.
Nếu những người trí thức Việt Nam đặt đất nước lên hàng đầu, chúng ta cần nghiêm khắc nói không với lối hành động nhân sĩ vô tổ chức và thiếu một dự án chính trị nghiêm chỉnh. Sự thiếu ý thức và vô trách nhiệm với dân tộc tại thời điểm này là có lỗi lớn với đất nước, với dân tộc. Đây là thời điểm của những người trí thức chính trị nặng lòng với đất nước, chúng ta cần phải tìm đến với nhau. Những vấn đề lớn của dân tộc cần được được thảo luận một cách tương kính trong tình huynh đệ. Đây là thời điểm mà trí thức Việt Nam cần có một sự chuẩn bị thực sự nghiêm túc cho một giai đoạn đầy thử thách sắp tới.
Thời khắc giao thừa giữa năm cũ và năm mới thường mang lại cho chúng ta niềm hy vọng, lạc quan và cảm hứng mới. Chúc cho phong trào dân chủ trong năm 2019 sẽ đạt thêm nhiều bước tiến mới quan trọng. Chúc những trí thức, người yêu nước Việt Nam ngày càng tự tin và lớn mạnh hơn để trở thành những người dẫn dắt phong trào dân chủ Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét