Moisés Naím và Francisco Toro
Hãy xem xét hai quốc gia Mỹ Latinh. Quốc gia đầu tiên là một trong những nền dân chủ lâu đời và mạnh nhất khu vực. Nó tự hào có một hệ thống an sinh xã hội mạnh hơn bất cứ nước láng giềng nào và đang tiến tới trong việc thực hiện lời hứa cung cấp dịch vụ y tế và giáo dục đại học miễn phí cho tất cả công dân. Nó là hình mẫu cho sự thăng tiến trong xã hội và thỏi nam châm đối với người nhập cư đến từ khắp châu Mỹ Latinh và châu Âu. Báo chí tự do, và hệ thống chính trị cởi mở; các đảng đối lập cạnh tranh quyết liệt trong các cuộc bầu cử và thường xuyên thay nhau nắm quyền một cách hòa bình. Nó đã tránh được làn sóng của những chính quyền quân phiệt vốn dìm một số quốc gia Mỹ Latinh trong vũng lầy độc tài. Nhờ một liên minh chính trị lâu dài và những mối quan hệ thương mại và đầu tư sâu sắc với Hoa Kỳ, nó đóng vai trò là trụ sở chính ở châu Mỹ Latinh cho hàng loạt tập đoàn đa quốc gia. Nó có cơ sở hạ tầng tốt nhất Nam Mỹ. Nó hẳn là một quốc gia đang phát triển, với hiện trạng tham nhũng, bất công và trì trệ của riêng mình, nhưng nó đã vượt xa các nước nghèo khác dựa trên hầu hết mọi thước đo.
Quốc gia thứ hai là một trong những quốc gia nghèo nhất châu Mỹ Latinh và là chế độ độc tài mới nhất ở đây. Các trường học bị bỏ hoang một nửa. Hệ thống y tế bị tàn phá bởi nhiều thập kỷ thiếu đầu tư, tham nhũng và bỏ bê; các bệnh dịch đã được chinh phục từ lâu, như sốt rét và sởi, vừa quay trở lại. Chỉ một tầng lớp ưu tú nhỏ bé đủ ăn. Một cơn đại dịch bạo lực đã khiến nó trở thành một trong những quốc gia có nhiều người bị giết nhất trên thế giới. Nó là nguồn của đợt di cư tị nạn lớn nhất châu Mỹ Latinh trong một thế hệ qua, với hàng triệu công dân trốn chạy chỉ trong vài năm trở lại đây. Hầu như không ai (ngoài các chính phủ độc tài khác) công nhận các cuộc bầu cử giả hiệu của nó, và một phần nhỏ giới truyền thông không chịu sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước vẫn phải tường thuật tin tức theo chiều hướng chính thức do sợ bị trả thù. Đến cuối năm 2018, nền kinh tế của nó đã co cụm lại còn khoảng một nửa sau 5 năm. Nó là một trung tâm buôn bán cocaine lớn, và nhiều nhân vật quyền thế trong giới tinh hoa chính trị của nó đã bị truy tố tại Hoa Kỳ với những tội danh về ma túy. Giá cả cứ tăng sau mỗi 25 ngày. Sân bay chính phần lớn bị bỏ hoang, chỉ được sử dụng bởi một số ít hãng hàng không cố nán lại để chở một số ít hành khách đi và đến từ thế giới bên ngoài.
Hai quốc gia này trên thực tế chỉ là một, Venezuela, vào hai thời điểm khác nhau: đầu những năm 1970 và ngày nay. Sự chuyển đổi mà Venezuela đã trải qua quá triệt để, quá đầy đủ và quá hoàn toàn đến mức khó tin rằng nó đã diễn ra mà không qua một cuộc chiến tranh. Chuyện gì đã xảy ra với Venezuela? Làm thế nào mọi thứ đi sai đến như vậy?
Câu trả lời ngắn gọn là chủ nghĩa Chávez (nguyên văn: Chavismo). Dưới sự lãnh đạo của Hugo Chávez và người kế vị Nicolás Maduro, đất nước này đã trải qua một sự pha trộn độc hại của chính sách phá hoại bừa bãi, chủ nghĩa chuyên chế leo thang, và một chính thể bất lương, lúc nào cũng ở dưới sự ảnh hưởng của Cuba tới một mức độ nào đó và thường giống như một sự chiếm đóng. Bất cứ cái nào trong những đặc tính kể trên tự nó đã đủ để tạo ra những vấn đề to lớn. Tất cả các đặc tính ấy hợp lại sinh ra một thảm họa. Ngày nay, Venezuela là một quốc gia nghèo, một quốc gia thất bại và tội phạm hóa được cai trị bởi một kẻ chuyên quyền mắc nợ một thế lực nước ngoài. Các chọn lựa còn lại để đảo ngược tình huống này là mong manh; nguy cơ hiện thời là tình trạng vô vọng sẽ thúc đẩy người dân Venezuela đi đến việc ủng hộ những biện pháp nguy hiểm, chẳng hạn như một cuộc xâm lược quân sự do Hoa Kỳ dẫn đầu, có thể khiến tình hình đã xấu còn tồi tệ hơn.
CHỦ NGHĨA CHÁVEZ DÂNG CAO
Đối với nhiều nhà quan sát, lời giải thích cho thảm trạng của Venezuela rất đơn giản: dưới thời Chávez, đất nước này nhiễm một trường hợp nặng chủ nghĩa xã hội, và tất cả các thảm họa sau đó đều bắt nguồn từ tội lỗi nguyên thủy đó. Nhưng Argentina, Brazil, Chile, Ecuador, Nicaragua và Uruguay cũng đều từng bầu ra những chính phủ xã hội chủ nghĩa trong 20 năm qua. Mặc dù mỗi quốc gia trên có gặp khó khăn về chính trị và kinh tế, nhưng không quốc gia nào -- ngoài Nicaragua -- suy sụp. Ngược lại, nhiều nước còn trở nên thịnh vượng.
Nếu không thể đổ lỗi cho chủ nghĩa xã hội về sự sụp đổ của Venezuela, có lẽ dầu mỏ là thủ phạm. Giai đoạn khốc hại nhất của cuộc khủng hoảng ở Venezuela diễn ra trùng khít với đợt sụt giảm mạnh của giá dầu quốc tế bắt đầu vào năm 2014. Nhưng lời giải thích này cũng chưa đủ. Sự suy giảm của Venezuela bắt đầu từ bốn thập kỷ trước chứ không phải bốn năm trước. Đến năm 2003, GDP trên mỗi lao động của Venezuela đã giảm tới 37% so với đỉnh điểm năm 1978 -- chính là đợt sụt giảm đã đưa Chávez lên đỉnh quyền lực. Hơn nữa, tất cả các quốc gia dầu mỏ trên thế giới đều đã chịu một cú sốc thu nhập nghiêm trọng trong năm 2014 do giá dầu rơi mạnh. Chỉ riêng Venezuela không chịu nổi áp lực này.
Những nguyên nhân khiến Venezuela thất bại có nguồn gốc sâu xa hơn. Hàng thập kỷ suy giảm kinh tế dần dần đã mở đường cho Chávez, một chính khách dân túy lôi cuốn ôm ấp một ý thức hệ lỗi thời, lên nắm quyền và thiết lập một chế độ chuyên chế tham nhũng rập khuôn và dựa dẫm vào chế độ độc tài ở Cuba. Mặc dù cuộc khủng hoảng xảy ra trước khi Chávez lên cầm quyền, di sản của ông và ảnh hưởng của Cuba phải nằm ở trung tâm của bất cứ một nỗ lực nào nhằm giải thích nó.
Chávez sinh năm 1954 trong một gia đình hạ trung lưu ở một thị trấn nông thôn. Ông trở thành một sĩ quan quân đội chuyên nghiệp với một học bổng về bóng chày và sớm được bí mật kết nạp vào một phong trào cánh tả nhỏ vốn dành hơn một thập kỷ để âm mưu lật đổ thể chế dân chủ. Ông đột hiện trong ý thức quốc gia Venezuela vào ngày 4 tháng 2 năm 1992, khi cầm đầu một cuộc đảo chính bất thành. Cuộc phiêu lưu thất bại này đã đưa ông vào tù nhưng bất ngờ biến ông thành một người hùng của nhân dân, người thể hiện sự thất vọng ngày càng tăng với một thập kỷ trì trệ về kinh tế. Sau khi được ân xá, ông phát khởi một cuộc vận động từ bên ngoài để tranh cử tổng thống vào năm 1998 và giành được chiến thắng áp ảo, lật đổ hệ thống lưỡng đảng đã định vị nền dân chủ Venezuela trong 40 năm.
Điều gì đã thúc đẩy sự bùng nổ của cơn phẫn nộ dân túy đưa Chávez lên nắm quyền? Nói cho gọn, sự thất vọng. Thành quả kinh tế sáng chói mà Venezuela đã có được trong 5 thập kỷ trước những năm 1970 đã hết đà, và đường đến tầng lớp trung lưu bắt đầu thu hẹp. Như hai kinh tế gia Ricardo Hausmann và Francisco Rodríguez ghi nhận, "Đến năm 1970 Venezuela đã trở thành quốc gia giàu nhất châu Mỹ Latinh và là một trong hai mươi quốc gia giàu nhất thế giới, với GDP bình quân đầu người cao hơn Tây Ban Nha, Hy Lạp, và Israel, và chỉ 13% thấp hơn so với Vương quốc Anh." Nhưng đến đầu những năm 1980, một thị trường dầu lửa suy yếu đã kết thúc giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng. Doanh thu từ dầu lửa thấp hơn đồng nghĩa với công chi bị cắt giảm, các chương trình xã hội bị thu nhỏ, đồng nội tệ bị mất giá, lạm phát phi mã, một cuộc khủng hoảng ngân hàng, và thất nghiệp tăng cao cùng với đời sống thêm khó khăn đối với người nghèo. Mặc dù vậy, bước tiến trước đó của Venezuela lớn đến độ khi Chávez đắc cử, nước này có thu nhập bình quân đầu người chỉ đứng sau Argentina trong khu vực.
Một lời giải thích phổ biến khác cho rằng sự trỗi dậy của Chávez đã được thúc đẩy bởi phản ứng của cử tri đối với tình trạng bất bình đẳng kinh tế, gây ra do tham nhũng tràn lan. Nhưng khi Chávez lên nắm quyền, thu nhập được phân bổ đều ở Venezuela hơn bất cứ một quốc gia láng giềng nào. Nếu sự bất bình đẳng xác định kết quả bầu cử, thì một ứng cử viên giống như Chávez sẽ có nhiều triển vọng hơn ở Brazil, Chile, hoặc Colombia, nơi khoảng cách giữa người khá giả và những người khác lớn hơn.
Venezuela có thể đã không sụp đổ vào năm 1998, nhưng nó đã bị trì trệ và, trên một số phương diện, trượt lùi, khi giá dầu giảm xuống chỉ còn 11 Mỹ kim một thùng, dẫn đến một đợt chính sách khắc khổ mới. Chávez đã rất xuất sắc trong việc khai thác sự bất mãn nảy sinh. Những lời tố cáo hùng hồn của ông về tình trạng bất bình đẳng, sự loại trừ, nghèo đói, tham nhũng và giới tinh hoa chính trị bám chắc quyền lực đã đánh động được những cử tri đang gặp khó khăn, những người còn nhớ về một thời kỳ thịnh vượng hơn trước kia. Giới tinh hoa chính trị và kinh doanh truyền thống bất tài và tự mãn đối đầu với Chávez chưa bao giờ đến gần quần chúng được như ông.
Người dân Venezuela đã đặt cược trên Chávez. Điều mà họ nhận được không chỉ là một kẻ ngoại cuộc quyết tâm đảo ngược hiện trạng mà còn là một biểu tượng cánh tả người Mỹ Latinh chẳng mấy chốc được nhiều người ủng hộ trên toàn thế giới. Chávez trong cùng lúc trở thành một kẻ phá bĩnh và một ngôi sao thu hút tại những hội nghị cấp cao toàn cầu, và cũng là một nhà lãnh đạo của làn sóng tình cảm bài Mỹ bùng nổ sau quyết định của Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush đưa quân xâm lược Iraq. Tại quê nhà, do trưởng thành trong binh nghiệp, Chávez có thiên hướng tập trung quyền lực và bất dung sâu sắc đối với giới bất đồng chính kiến. Ông quyết tâm triệt hạ không chỉ các chính trị gia đối lập mà cả các đồng minh chính trị dám nêu nghi vấn với những chính sách của ông. Các cộng tác viên của ông đã nhanh chóng nhận ra gió đang thổi theo chiều nào: mọi cuộc tranh luận về chính sách đều biến mất, và chính phủ theo đuổi một nghị trình cực đoan với rất ít cân nhắc và không có sự duyệt xét đích thực.
Một sắc lệnh của tổng thống năm 2001 về cải cách đất đai, mà Chávez ban hành không có sự tham khảo hay tranh luận nào, mang hương vị của những điều sắp tới. Sắc lệnh phá vỡ các trang trại thương mại lớn và trao chúng cho những hợp tác xã nông dân thiếu tri thức kỹ thuật, kỹ năng quản trị, hoặc sự tiếp cận vốn để sản xuất trên quy mô lớn. Ngành sản xuất lương thực sụp đổ. Và trong hết lãnh vực này đến lãnh vực khác, chính phủ Chávez ban hành những chính sách tự hủy tương tự. Chính phủ chiếm hữu các liên doanh dầu mỏ thuộc sở hữu nước ngoài mà không bồi thường và trao quyền điều hành chúng cho các ủy viên chính trị thiếu chuyên môn kỹ thuật. Chính phủ quốc hữu hóa các công ty tiện ích và viễn thông chính, khiến Venezuela lâm cảnh thiếu nước và điện kinh niên với tốc độ kết nối Internet thuộc hàng chậm nhất thế giới. Chính phủ tịch thu các công ty thép, khiến sản lượng giảm từ 480 nghìn tấn mỗi tháng trước đợt quốc hữu hóa, vào năm 2008, trở nên thật sự là không còn gì vào ngày hôm nay. Những kết quả tương tự cũng xảy ra sau việc chiếm hữu các công ty nhôm, công ty khai thác mỏ, các khách sạn và các hãng hàng không.
Lần lượt trong từng công ty bị thu hồi, các quản trị viên nhà nước đã tước tài sản và đưa những đàn em của Chávez vào làm nhân viên. Khi họ gặp vấn đề tài chính vốn không thể tránh khỏi, họ kêu cứu lên chính phủ, và được chính phủ giải cứu. Đến năm 2004, giá dầu tăng vọt trở lại, lấp đầy kho bạc của chính phủ bằng tiền bán dầu, mà Chávez đã chi ra mà không hề có sự ràng buộc, kiểm soát hay trách nhiệm giải trình. Trên hết là các khoản vay dễ dàng từ Trung Quốc, một quốc gia rất hoan hỷ gia hạn tín dụng cho Venezuela để đổi lấy một nguồn cung dầu thô được bảo đảm. Bằng cách nhập cảng bất cứ hàng hóa nào mà nền kinh tế bị khoét rỗng của Venezuela không sản xuất được và vay mượn để tài trợ cho một đợt bùng nổ tiêu dùng, Chávez đã tạm thời che chắn cho công chúng khỏi chịu tác động của những chính sách thảm họa của mình và duy trì được sự tín nhiệm đáng kể.
Nhưng không phải ai cũng bị thuyết phục. Các công nhân ngành dầu khí nằm trong số người đầu tiên gióng lên hồi chuông báo động về những xu hướng độc đoán của Chávez. Họ đã đình công vào năm 2002 và 2003 để yêu cầu bầu lại tổng thống. Để đối phó với các cuộc biểu tình, Chávez sa thải gần một nửa lực lượng lao động trong công ty dầu khí nhà nước và áp đặt một chế độ kiểm soát thị trường tiền tệ cổ lỗ sĩ. Hệ thống này đã biến hình thành một ổ tham nhũng, khi bọn tay chân của chế độ nhận ra rằng việc đứng trung gian giữa thị trường hối đoái do nhà nước ủy quyền và thị trường chợ đen có thể mang lại những khối tài lớn chỉ sau một đêm. Cơ chế trung gian này đã tạo ra một tầng lớp ưu tú giàu có phi thường gồm những quan chức bất lương. Khi guồng máy công quyền bất lương hoàn thiện nghệ thuật hút tiền bán dầu vào hầu bao của mình, thì các kệ hàng của Venezuela càng trở nên trơ trụi.
Tất cả những điều đó đã được dự đoán một cách đau đớn và rộng rãi. Nhưng các chuyên gia trong nước và quốc tế càng báo động ồn ào, thì chính phủ càng bám chặt vào chương trình nghị sự của mình. Đối với Chávez, những cảnh cáo u ám từ các nhà kỹ trị lại là dấu hiệu cho thấy cuộc cách mạng của ông đang đi đúng hướng.
TRAO TRUYỀN NGỌN ĐUỐC
Vào năm 2011, Chávez được chẩn đoán mắc bệnh ung thư. Các bác sĩ ung thư hàng đầu ở Brazil và Hoa Kỳ đề nghị điều trị cho ông. Nhưng thay vào đó, ông tìm cách chữa trị ở Cuba, quốc gia mà ông tin tưởng là không chỉ điều trị cho ông mà còn giữ bí mật về bệnh trạng của ông. Khi cơn bệnh tiến triển, ông càng phụ thuộc hơn vào Havana, và tình trạng sức khỏe thực sự của ông lại càng trở nên bí ẩn. Vào ngày 8 tháng 12 năm 2012, một Chávez ốm yếu xuất hiện trên truyền hình lần cuối để yêu cầu người dân Venezuela đưa Maduro, khi đó là phó tổng thống, lên làm người kế nhiệm ông. Trong ba tháng tiếp theo, Venezuela được cai trị bằng một bóng ma và bằng điều khiển từ xa: những sắc lệnh xuất phát từ Havana mang chữ ký của Chávez, nhưng không ai trông thấy ông, và những lời đồn đoán xuất hiện đầy rẫy rằng ông đã chết. Khi cái chết của Chávez rốt cuộc được công bố, vào ngày 5 tháng 3 năm 2013, điều duy nhất rõ ràng giữa bầu không khí bí ẩn và đầy che giấu là nhà lãnh đạo tiếp theo của Venezuela sẽ tiếp tục truyền thống chịu ảnh hưởng của Cuba.
Chávez từ lâu đã xem Cuba như một bản lộ đồ chi tiết của cách mạng, và tại những thời điểm quan trọng ông đều vấn kế Chủ tịch Cuba Fidel Castro. Đổi lại, Venezuela đã gửi dầu lửa: viện trợ năng lượng cho Cuba (dưới dạng 115 nghìn thùng mỗi ngày được bán với giá giảm sâu) trị giá gần 1 tỷ Mỹ kim mỗi năm cho Havana. Mối quan hệ giữa Cuba và Venezuela trở thành nhiều hơn là một liên minh. Như Chávez đã từng nói, đó là "một sự hợp nhất của hai cuộc cách mạng." (Một cách bất thường, đối tác đàn anh trong liên minh lại nghèo hơn và nhỏ hơn so với đối tác đàn em, nhưng có thẩm quyền hơn rất nhiều khi chi phối cả mối quan hệ.) Cuba cũng cẩn thận giữ cho dấu ấn của mình mờ nhạt: họ tiến hành hầu hết các cuộc tham vấn tại Havana thay vì tại Caracas.
Ai cũng nhận ra nhà lãnh đạo mà Chávez chỉ định để thay thế mình đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản ở Cuba. Khi còn là một thiếu niên, Maduro đã tham gia một đảng Mác-xít bên lề thân Cuba ở Venezuela. Ở tuổi 20, thay vì đi học đại học, ông đã xin vào ngôi trường ở Havana chuyên đào tạo cán bộ quốc tế để trở thành một nhà cách mạng chuyên nghiệp. Trên cương vị ngoại trưởng của Chávez từ năm 2006 đến 2013, ông hiếm khi gây chú ý: chỉ có lòng trung thành không ngưng nghỉ của ông đối với Chávez, và với Cuba, đẩy ông lên đỉnh cao. Dưới sự lãnh đạo của ông, ảnh hưởng của Cuba tại Venezuela đã trở nên bao trùm. Ông đã bổ nhiệm những nhà hoạt động được đào tạo trong các tổ chức của Cuba vào những chức vụ quan trọng của chính phủ, và người Cuba đã dần dà nắm giữ nhiều vai trò nhạy cảm trong chế độ Venezuela. Ví dụ, bản báo cáo tình báo mà Maduro đọc mỗi ngày không do người Venezuela soạn thảo mà do các sĩ quan tình báo Cuba.
Với sự hướng dẫn của người Cuba, Maduro siết chặt các quyền tự do kinh tế và xóa bỏ mọi dấu vết còn lại của chủ nghĩa tự do khỏi nền chính trị và các định chế của đất nước. Ông tiếp tục và mở rộng cách hành xử của Chávez là bỏ tù, lưu đày hoặc cấm tham gia đời sống chính trị đối với những nhà lãnh đạo đối lập đã trở nên quá nổi tiếng hoặc khó hợp tác. Julio Borges, một nhà lãnh đạo đối lập quan trọng, đã trốn đi lưu vong để tránh bị bỏ tù, và Leopoldo López, nhà lãnh đạo lôi cuốn nhất của phe đối lập, đã bị chuyển qua lại giữa một nhà tù quân đội và tình trạng quản thúc tại gia. Hơn 100 tù nhân chính trị sống vất vưởng trong các nhà tù, và các báo cáo về tra tấn là phổ biến. Các cuộc bầu cử định kỳ đã trở nên trò đùa, và chính phủ đã tước bỏ mọi quyền lực của Quốc hội do phe đối lập kiểm soát. Maduro đã tăng cường các mối liên minh của Venezuela với một số chế độ chống Mỹ và chống phương Tây, quay sang Nga để có vũ khí, an ninh mạng và chuyên môn trong sản xuất dầu; quay sang Trung Quốc để tìm tài trợ và cơ sở hạ tầng; quay sang Belarus để xây nhà; và quay sang Iran để sản xuất xe hơi.
Khi Maduro phá vỡ các mối liên kết cuối cùng còn lại trong những liên minh truyền thống giữa Venezuela với Washington và các nền dân chủ Mỹ Latinh khác, ông cũng đánh mất sự tiếp cận với một nguồn khuyến nghị tốt về kinh tế. Ông bác bỏ sự đồng thuận của các nhà kinh tế thuộc mọi khuynh hướng chính trị: mặc dù họ cảnh cáo về lạm phát, Maduro đã chỉ dựa vào lời khuyên của Cuba và các cố vấn chính sách ngoài lề theo chủ nghĩa Mác. Họ bảo đảm với ông rằng sẽ không có hậu quả nào trong việc bù đắp ngân sách bằng cách in thêm tiền. Dĩ nhiên, một cơn siêu lạm phát khủng khiếp đã xảy ra sau đó.
Một kết hợp độc hại gồm ảnh hưởng của Cuba, tham nhũng vượt kiểm soát, việc dỡ bỏ các cơ chế kiểm tra và cân bằng của nền dân chủ, và sự bất tài đích thực đã khóa chặt Venezuela trong những chính sách kinh tế thảm bại. Khi mức lạm phát hàng tháng gần vượt qua ba chữ số, chính phủ ứng biến bằng những chính sách chắc hẳn sẽ còn làm cho tình hình tồi tệ hơn.
PHÂN TÍCH MỘT CUỘC SỤP ĐỔ
Gần như tất cả các nền dân chủ tự do sản xuất dầu, như Na Uy, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, là các nền dân chủ trước khi trở thành nhà sản xuất dầu. Các chế độ chuyên chế đã tìm thấy dầu, như Angola, Brunei, Iran và Nga, đã không thể thực hiện bước nhảy vọt lên dân chủ tự do. Trong bốn thập kỷ, Venezuela dường như đã vượt qua rào cản này một cách kỳ diệu -- nó dân chủ hóa và tự do hóa vào năm 1958, nhiều thập kỷ sau khi tìm thấy dầu.
Nhưng gốc rễ của nền dân chủ tự do của Venezuela hóa ra lại nông cạn. Hai thập kỷ kinh tế tồi tệ đã tiêu diệt uy tín của các đảng chính trị truyền thống, và một chính khách dân túy cuốn hút, cưỡi một đợt sóng bùng nổ dầu mỏ, có cơ hội nhập cuộc. Trong những điều kiện bất thường này, hắn ta đã có thể quét sạch toàn bộ cấu trúc kiểm tra và cân bằng của nền dân chủ trong chỉ vài năm.
Khi đợt bùng nổ giá dầu kéo dài một thập kỷ kết thúc vào năm 2014, Venezuela không chỉ mất doanh thu từ dầu, nơi uy tín và ảnh hưởng quốc tế của Chávez phụ thuộc vào, mà còn mất đi sự tiếp cận thị trường tín dụng nước ngoài. Điều này để lại cho quốc gia một món nợ treo khổng lồ: các khoản vay trong thời kỳ bùng nổ dầu mỏ vẫn phải được chi trả, dù nguồn thu đã giảm nhiều. Rốt cuộc Venezuela có cơ cấu chính trị điển hình của những chế độ chuyên chế phát hiện ra dầu mỏ: một thể chế đầu sỏ săn mồi, bòn rút làm ngơ cho người dân thường miễn là họ im lặng và đàn áp tàn bạo khi họ phản kháng.
Cuộc khủng hoảng từ đó mà ra đang biến hình thành thảm họa nhân đạo tồi tệ nhất trong ký ức ở Tây Bán Cầu. Khó mà có được những số liệu chính xác về sự sụp đổ GDP của Venezuela, nhưng các nhà kinh tế ước tính rằng nó ngang ngửa với sự co cụm 40% GDP của Syria kể từ năm 2012, sau khi cuộc nội chiến tàn khốc bùng nổ. Siêu lạm phát đã đạt tới một triệu phần trăm mỗi năm, đẩy 61 phần trăm người dân Venezuela vào tình trạng cực kỳ nghèo khổ, với 89 phần trăm những người được thăm dò nói rằng họ không có tiền để mua đủ lương thực cho gia đình và 64 phần trăm cho biết họ đã mất trung bình 11 kg trọng lượng cơ thể do đói. Khoảng mười phần trăm dân số -- 2,6 triệu người dân Venezuela -- đã trốn sang các nước láng giềng.
Nhà nước Venezuela đã bỏ bê hầu hết các dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục, và thậm chí trị an; bạo lực đàn áp nặng tay là cái còn lại sau cùng mà người dân Venezuela có thể tin tưởng rằng khu vực công có thể cung cấp liên tục cho họ. Đáp lại các cuộc biểu tình rầm rộ vào năm 2014 và 2017, chính phủ đã thực hiện hàng nghìn vụ bắt giữ, đánh đập và tra tấn dã man, và giết chết hơn 130 người biểu tình.
Trong khi đó, các công cuộc kinh doanh tội phạm ngày càng được tiến hành không phải là bất chấp nhà nước, hoặc thậm chí đơn giản là toa rập với nhà nước, mà trực tiếp thông qua nhà nước. Nạn buôn bán ma túy nổi lên bên cạnh việc sản xuất dầu mỏ và trung gian hối đoái như một nguồn lợi nhuận chính của những kẻ gần gũi với giới ưu tú đương quyền, với nhiều quan chức cấp cao và thành viên gia đình tổng thống đối diện với cáo trạng về ma túy ở Hoa Kỳ. Một nhóm ưu tú nhỏ có nhiều quan hệ cũng đánh cắp tài sản quốc gia ở một mức độ chưa từng thấy. Vào tháng 8, một loạt doanh nhân có liên hệ với chế độ đã bị truy tố tại các tòa án liên bang ở Hoa Kỳ vì toan tính rửa hơn 1,2 tỷ Mỹ kim trong các ngân khoản thủ đắc một cách bất hợp pháp -- đây chỉ là một trong hàng loạt âm mưu lừa đảo phi pháp đang bòn rút của Venezuela. Toàn bộ khu vực phía đông nam của đất nước đã trở thành một trại khai thác khoáng sản bất hợp pháp và bóc lột, nơi người dân tuyệt vọng bị di dời khỏi các thành phố vì nạn đói đến thử vận may trong những hầm mỏ không an toàn do các băng đảng tội phạm điều hành dưới sự bảo vệ của quân đội. Trên khắp nước, các băng đảng nhà tù, hợp tác với các lực lượng an ninh chính phủ, điều hành những vụ tống tiền béo bở khiến họ trở thành thẩm quyền dân sự trên thực tế. Các trụ sở Kho Bạc, ngân hàng trung ương và công ty dầu khí quốc gia đã trở thành phòng thí nghiệm nơi những tội phạm tài chính phức tạp được lên kế hoạch. Khi nền kinh tế Venezuela sụp đổ, các lằn ranh chia cách nhà nước với những doanh nghiệp tội phạm xem như đã biến mất.
THẾ ĐA NAN Ở VENEZUELA
Bất cứ khi nào Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump gặp một nhà lãnh đạo Mỹ Latinh, ông đều nhấn mạnh rằng khu vực này nên làm gì đó đối với cuộc khủng hoảng ở Venezuela. Trump đã thúc giục đội ngũ an ninh quốc gia của chính mình tìm kiếm những giải pháp "mạnh", và tại một thời điểm, ông còn nói rằng có "nhiều chọn lựa" cho Venezuela và rằng ông "sẽ không loại trừ giải pháp quân sự." Thượng nghị sĩ Cộng Hòa Marco Rubio của Florida cũng từng nhắc đến một phản ứng quân sự. Tuy nhiên, Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis đã cất lên tiếng nói chung của bộ máy an ninh Hoa Kỳ bằng cách tuyên bố công khai, "Khủng hoảng ở Venezuela không phải là vấn đề quân sự." Tất cả các quốc gia láng giềng của Venezuela cũng lên tiếng phản đối một cuộc tấn công vũ trang nhắm vào Venezuela.
Và điều đó đúng. Những cơn hoang tưởng của Trump về cuộc xâm lược quân sự sai lầm một cách sâu sắc và cực kỳ nguy hiểm. Mặc dù một cuộc tấn công quân sự do Hoa Kỳ dẫn đầu có thể sẽ không gặp trở ngại nào để lật đổ Maduro trong thời gian ngắn, nhưng điều xảy đến sau đó có thể tồi tệ hơn nhiều, như người Iraq và người Libya đã biết quá rõ: khi những thế lực bên ngoài lật đổ các nhà độc tài cai trị các quốc gia thất bại, sự hỗn loạn không dứt có nhiều khả năng xảy ra hơn là sự ổn định -- chứ đừng nói đến dân chủ.
Dù sao đi nữa, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục đối diện với áp lực phải tìm cách chặn đứng sự sụp đổ của Venezuela. Mỗi sáng kiến được thực hiện cho đến nay chỉ làm rõ một điều là, trên thực tế, Hoa Kỳ chẳng làm được gì. Dưới thời Obama, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã cố gắng tiếp xúc trực tiếp với chính quyền Venezuela. Nhưng các cuộc đàm phán tỏ ra vô ích. Maduro đã sử dụng các cuộc đàm phán do quốc tế làm trung gian để vô hiệu hóa các cuộc biểu tình lớn trên đường phố: các nhà lãnh đạo biểu tình đồng ý hoãn biểu tình trong khi có đàm phán, nhưng các nhà đàm phán theo chủ nghĩa Chávez không lùi bước, mà chỉ đưa ra những nhượng bộ nhỏ được thiết kế để chia rẽ các đối thủ, trong khi chính họ chuẩn bị cho đợt đàn áp tiếp theo. Hoa Kỳ và các nước láng giềng của Venezuela dường như cuối cùng đã nhận ra, như hiện trạng cho thấy, đàm phán đồng nghĩa với mắc mưu Maduro.
Một số nước đã đề nghị sử dụng những biện pháp trừng phạt kinh tế khắc nghiệt để áp lực Maduro từ chức. Hoa Kỳ đã thử điều này. Nước này đã thông qua nhiều đợt trừng phạt, dưới cả hai chính quyền Obama và Trump, để ngăn chặn Venezuela phát hành thêm nợ mới và cản trở hoạt động tài chính của công ty dầu khí nhà nước Venezuela. Cùng với Canada và EU, Washington cũng đã đưa ra những biện pháp trừng phạt đối với một số quan chức chế độ, đóng băng tài sản của họ ở nước ngoài và áp đặt những hạn chế đi lại. Nhưng các biện pháp như thế đều thừa thãi: nếu mục tiêu là phá hủy nền kinh tế Venezuela, không có nhóm biện pháp trừng phạt nào hiệu quả bằng chính chế độ. Điều tương tự cũng đúng đối với một cuộc phong tỏa dầu: sản xuất dầu đã ở trong tình trạng rơi tự do.
Washington có thể mài sắc thêm chính sách của mình ở phía ngoài. Một mặt, nó cần đặt nặng vai trò của kênh liên lạc Cuba: khó đạt được gì nếu không có sự giúp đỡ của Havana, nghĩa là vấn đề Venezuela cần phải ở đầu và ở trọng tâm của mọi cuộc tiếp xúc mà Washington và các đồng minh có với Havana. Hoa Kỳ có thể giăng một mạng lưới rộng lớn hơn trong việc chống tham nhũng, ngăn chặn không chỉ những quan tham mà cả đàn em và gia đình của họ được hưởng lợi từ tham nhũng, buôn bán ma túy và biển thủ. Hoa Kỳ cũng nên tính đến việc biến cuộc cấm vận vũ khí đang có thành một cuộc cấm vận toàn cầu. Chế độ Maduro phải bị câu thúc trong ý đồ chuyên chế của nó bằng những chính sách truyền đạt rõ ràng cho những thân hữu của chế độ rằng tiếp tục hỗ trợ chế độ sẽ khiến họ bị cô lập ở Venezuela và rằng quay lưng với chế độ, do đó, là lối ra duy nhất. Tuy nhiên, triển vọng thành công của một chiến lược như thế vẫn còn mờ mịt.
Sau một thời gian dài phân vân, các quốc gia Mỹ Latinh khác cuối cùng cũng hiểu ra rằng tình trạng bất ổn của Venezuela chắc chắn sẽ tràn qua biên giới của họ. Khi "làn sóng hồng" trung tả của những năm đầu thế kỷ này thoái trào, một thế hệ mới các nhà lãnh đạo bảo thủ hơn ở Argentina, Brazil, Chile, Colombia, và Peru đã làm nghiêng cán cân khu vực chống lại chế độ độc tài ở Venezuela, nhưng sự thiếu giải pháp khả thi cũng khiến họ bối rối. Ngoại giao truyền thống không hữu hiệu và thậm chí còn phản tác dụng. Nhưng áp lực cũng thế. Chẳng hạn, vào năm 2017, các quốc gia Mỹ Latinh đe dọa đình chỉ tư cách thành viên của Venezuela trong Tổ Chức Các Quốc Gia Châu Mỹ. Chế độ đã phản ứng bằng cách đơn phương rút khỏi tổ chức, chứng tỏ họ chẳng hề quan tâm đến áp lực ngoại giao truyền thống.
Các láng giềng bực tức của Venezuela đang ngày càng nhìn nhận cuộc khủng hoảng qua lăng kính của vấn đề người tị nạn mà nó đã tạo ra; họ mong mỏi ngăn chặn dòng người suy dinh dưỡng đang trốn chạy khỏi Venezuela và đang tạo thêm gánh nặng cho những chương trình xã hội của họ. Khi một phản ứng dân túy lớn dần chống lại dòng người tị nạn Venezuela, một số nước Mỹ Latinh có vẻ muốn đóng sầm cánh cửa lại -- một cám dỗ mà họ phải kháng cự, vì đó sẽ là một lỗi lầm lịch sử chỉ khiến cho cuộc khủng hoảng tồi tệ hơn. Thực tế là các nước Mỹ Latinh không biết phải làm gì với Venezuela. Có lẽ họ không thể làm được gì, ngoại trừ chấp nhận người tị nạn, điều mà ít ra sẽ giúp giảm bớt nỗi khổ cho người dân Venezuela.
SỨC MẠNH CỦA DÂN
Ngày nay, chế độ cố thủ vững chắc đến mức một sự thay đổi những khuôn mặt có nhiều khả năng xảy ra hơn là một sự thay đổi hệ thống. Có lẽ Maduro sẽ bị đẩy ra bởi một nhà lãnh đạo bớt bất tài hơn một chút nhưng có khả năng khiến tư thế bá quyền của Cuba ở Venezuela vững bền hơn. Một kết quả như vậy chỉ có nghĩa là một thể chế bất lương dầu mỏ do nước ngoài thống trị ổn định hơn, chứ không phải là quay lại với nền dân chủ. Và ngay cả khi các lực lượng đối lập -- hay một cuộc tấn công vũ trang do Hoa Kỳ dẫn đầu -- cách nào đó thay thế được Maduro bằng một chính quyền hoàn toàn mới, thì nghị trình vẫn sẽ rất khó khăn. Một chế độ kế nhiệm sẽ cần phải giảm vai trò lớn lao của quân đội trong tất cả các lĩnh vực của khu vực công. Nó sẽ phải bắt đầu lại từ đầu trong việc khôi phục các dịch vụ cơ bản về y tế, giáo dục và thực thi pháp luật. Nó sẽ phải xây dựng lại ngành công nghiệp dầu mỏ và kích thích tăng trưởng trong các khu vực kinh tế khác. Nó sẽ cần phải loại trừ những bọn đầu nậu ma túy, săn lùng tù nhân, khai khoáng trục lợi, những nhà tài chính tội phạm giàu sụ, và những kẻ tống tiền đã bám vào mọi bộ phận của nhà nước. Và nó sẽ phải thực hiện tất cả những thay đổi này trong bối cảnh một môi trường chính trị độc hại, vô chính phủ và một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng.
Với quy mô của những trở ngại này, Venezuela có thể sẽ bất ổn trong một thời gian dài sắp tới. Thách thức trước mắt đối với công dân và các nhà lãnh đạo của họ, cũng như đối với cộng đồng quốc tế, là kiểm soát tác động của sự suy sụp của quốc gia. Dầu cho phải trải qua bao nhiêu đau khổ, người dân Venezuela chưa bao giờ ngừng đấu tranh chống lại ách cai trị sai trái. Trong mùa hè này, người dân Venezuela vẫn tổ chức hàng trăm cuộc biểu tình mỗi tháng. Hầu hết trong số đó là những cuộc biểu tình cấp địa phương, với ít sự lãnh đạo chính trị, nhưng chúng cho thấy một dân tộc với ý chí đấu tranh cho chính mình.
Điều đó liệu có đủ để đẩy đất nước này ra khỏi con đường đen tối hiện tại hay không? Chắc là không. Sự vô vọng đang khiến ngày càng nhiều người dân Venezuela mơ tưởng đến một cuộc can thiệp quân sự do Trump lãnh đạo, một kiểu phép tiên được mong mỏi mãnh liệt bởi một dân tộc đau khổ đã lâu. Nhưng điều này cùng lắm chỉ là một cơn hoang tưởng trả thù thiếu sáng suốt, không phải là một chiến lược nghiêm túc.
Thay vì một cuộc xâm lược quân sự, điều đáng hy vọng nhất đối với người dân Venezuela là bảo đảm rằng ngọn lửa lập lòe từ than hồng của biểu tình và bất đồng xã hội không bị dập tắt, và rằng cuộc phản kháng đối với chế độ độc tài được duy trì. Mặc dù tương lai có vẻ vô vọng, truyền thống phản kháng này một ngày nào đó có thể đặt nền móng cho sự phục hồi của các định chế dân sự và nếp sinh hoạt dân chủ. Sẽ không đơn giản, và sẽ không nhanh chóng. Đưa một quốc gia trở về từ bờ vực thất bại không bao giờ đơn giản và nhanh chóng.
Nguồn: Bài của trên tạp chí Foreign Affairs
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét