Các đoạn phân tích trên đây còn giúp cho chúng ta nhận thức
vai trò trọng yếu của Nam Việt trong giai đoạn hiện tại của lịch sử dân tộc. Vì
lệ thuộc đối với một chủ nghĩa, mà cả Nga Sô lẫn Trung Cộng đều sử dụng như là một phương tiện chiến đấu khả dĩ làm cho
dân tộc họ, các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã tạo thời cơ cho thực dân Pháp
thực hiện được
những thủ đoạn chính trị của họ, mà hậu quả đã đưa đến sự chia đôi lãnh thổ ngày nay.
Sự lệ thuộc nói trên và sự chia đôi lãnh thổ đã tạo hoàn cảnh cho sự chi phối
và sự toan thống trị của nước
Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mãnh, sau gần một thế kỷ vắng mặt.
Ký ức của những thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với
chúng ta còn ghi trong mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của
thân thể chúng ta. Các nhà lãnh đạo miền Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã
đặt chúng ta trước
một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những
sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn
tại của dân tộc. Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt
Nam chưa
thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền
Nam dưới
ảnh hưởng
của Tây phương
là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó.
Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng
thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian. Trong hoàn cảnh hiện tại, sự
tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị
của Trung
Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt,
khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực
hiện ý định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối của chính sách
chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay vì chính sách sống chung hòa bình của
Nga Sô.
Vì vậy cho nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở
thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả
nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc
lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc và cứu dân
tộc khỏi ách thống trị một lần nữa.
NHỮNG CÁI VỐN
KHÁC: VỐN NHÂN LỰC.
Trong một công cuộc phát triển dân tộc số lượng và phẩm lượng của nhân công đóng một vai trò
quan trọng tương
đương với tài nguyên của xứ sở. Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu giá trị
hiện hữu của vốn về nhân lực và vốn về tài nguyên của chúng ta. Chúng ta sẽ tự
ý để một bên mọi chương
trình tài chính và kỹ thuật để sử dụng tài nguyên và nhân lực một cách hữu hiệu
đến mức tối đa trong công cuộc phát triển. Các chƣơng trình như thế thuộc thẩm quyền các kinh tế
gia.
KHUÔN KHỔ CHÍNH
TRỊ
Ngoài giá trị hiện hữu của vốn nhân lực và vốn tài nguyên,
chúng ta cũng đề cập đến khuôn khổ chính trị, trong đó hai cái vốn trên sẽ được sử dụng một cách có lợi nhất cho
dân tộc trong giai đoạn này. Khuôn khổ chính trị, như chúng ta sẽ thấy dưới đây, sẽ quy định cách thức sử
dụng hai cái vốn trên và ấn định giới hạn khai thác vốn nhân lực.
Trong các nước
chưa phát triển như chúng ta, ngoài cái vốn tài nguyên
là một thứ vốn thụ động, nghĩa là tự nó không sinh lợi được, cái vốn hoạt động duy nhất mà chúng
ta có thể sử dụng được
hết sức rộng rãi là vốn nhân lực. Do đó, các kinh tế gia chỉ nhìn nhận vào mục
đích trước
mắt là khai thác đến tận cùng cái vốn duy nhất của chúng ta có thể sử dụng được trong công cuộc phát triển dân
tộc, dễ bị cám dỗ bởi những phương
pháp lãnh đạo khả dĩ giúp cho họ huy động được mà không gặp trở lực cái vốn nhân
lực đến mức tối đa.
Phương
pháp lãnh đạo thích nghi với quan niệm trên đây là phương pháp độc tài đảng trị, ví dụ như của Cộng Sản hay của Đức Quốc Xã.
Sự thành công của Nga Sô, và sự có thể thành công của Trung Cộng tăng nhiều uy
tín cho phương
pháp trên và nhiều nhà lãnh đạo bị những phương pháp đó cám dỗ.
PHƯƠNG PHÁP ĐỘC
TÀI ĐẢNG TRỊ
Phương
pháp độc tài Đảng trị dựa trên căn bản chặt hết các dây liên hệ của từng cá
nhân bất cứ dưới
hình thức gia đình, xã hội, tôn giáo, và văn hóa, và thay thế vào đó bằng những
dây liên hệ duy nhất với một đảng chính trị duy nhất, nắm chính quyền. Từ trên
căn bản đó các biện pháp được
quan niệm cho mọi lĩnh vực.
Cái lợi của phương
pháp trên là biến mỗi cá nhân thành ra một bộ phận rất dễ sai khiến, dễ uốn nắn
của một bộ máy khổng lồ nhiều khả năng nhưng cũng dễ sử dụng trong tay người lãnh đạo. Vì vậy, nhiều người lãnh đạo, khi có một chương trình vĩ đại cần phải thực hiện
trong một thời gian ngắn, dễ bị cám dỗ bởi một phương pháp hấp dẫn như thế, và dễ quên rằng những phương tiện mà họ muốn sử dụng như vậy không phải là những phương tiện vô tri, nhưng là những người mà trách nhiệm của người lãnh đạo là mưu hạnh phúc cho.
Nhưng
hiệu lực của phương
pháp trên như
thế nào, đối với công cuộc phát triển
toàn diện bằng cách Tây phương
hóa, mục đích mà, vì sự sống còn của dân tộc, chúng ta phải đạt cho kỳ được. Một công cuộc phát triển bằng
cách Tây phương
hóa, như
chúng ta đã biết, không phải chỉ giới hạn trong sự thâu thập kỹ thuật Tây phương, nhưng còn bao gồm sự thâu nhận nhiều
tiêu chuẩn giá trị mới. Như
thế thì, công cuộc phát triển bằng cách Tây phương hóa sẽ đương nhiên dẫn dắt đến sự cần thiết
phải tìm cho xã hội được
phát triển một trạng thái điều hòa mà trong đó các giá trị tiêu chuẩn mới sống
chung với nhiều giá trị tiêu chuẩn cũ.
Như
thế thì, tiêu chuẩn thành công hay thất bại của một công cuộc phát triển dân
tộc bằng cách Tây phương
hóa là sự kiện xã hội được
phát triển có tìm được
hay không một trạng thái điều hòa mới để bảo đảm cho sự tiến bộ của xã hội
trong tương
lai. Một xã hội điển hình, đã phát triển bằng cách Tây phương hóa theo phương pháp độc tài Đảng trị Cộng Sản,
là xã hội Nga Sô. Vậy xã hội Nga Sô đã thành công trong công cuộc phát triển
dân tộc chưa?
Nghĩa là xã hội Nga Sô đã tìm được
trạng thái điều hòa mới, khả dĩ bảo đảm sự tiến hóa trong tương lai chưa? Về vấn đề vô cùng quan trọng này,
trong các đoạn trên, chúng ta nhận thấy hai sự kiện.
Trước
hết các giá trị tiêu chuẩn của Nga Sô, trong phạm vi lãnh đạo, bất lực trong
vấn đề bảo đảm một sự lãnh đạo quốc gia liên tục, vì không thực hiện được một sự chuyển quyền điều hòa, mỗi
khi phải thay đổi người
lãnh đạo. Sự kiện thứ hai là sự kiện Nga Sô, sau khi mục đích kỹ thuật của công
cuộc phát triển đã đạt, đã phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của thuyết Các-Mác,
bằng những giá trị tiêu chuẩn có tính cách di sản của văn minh nhân loại, như chúng ta đã thấy trong một đoạn ở
trên.
Chúng ta phải ý thức rằng một sự thay thế những giá trị tiêu
chuẩn như
vậy, đương
nhiên, đả phá đến tận nền tảng chủ nghĩa Các-Mác Lê-nin. Đã như thế thì, chắc chắn rằng không bao
giờ các nhà lãnh đạo Nga Sô chấp nhận một sự thay đổi giá trị tiêu chuẩn như trên, nếu đã không bị thực tế lịch
sử dồn vào cái thế không làm sao không thay đổi được. Thực tế lịch sử đó là các giá
trị tiêu chuẩn chiến lược
và giai đoạn của thuyết Cộng Sản không thực hiện được một trạng thái điều hòa mới khả
dĩ bảo đảm sự tiến hóa của cộng đồng. Các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn đó, ví dụ, như chúng ta đã thấy, đề cao ái tình tự
do, đả phá gia đình, phủ nhận quyền tư hữu, bài trừ tôn giáo, vân vân..., đã nhân danh quyền lợi
của cộng đồng mà bóp chết cá nhân, do đó đương nhiên tiêu diệt trạng thái thăng
bằng động tiến
căn bản trong một cộng đồng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng.
Trạng thái thăng bằng động tiến mất, vì hai lực lượng tương phản không còn để tạo ra một
cuộc phối hợp sáng suốt. Sinh lực sáng tạo không có thì sự tiến hóa trong tương lai của cộng đồng không được bảo đảm. Như thế thì, chính là một đe dọa đến sự tồn
tại của xã hội Nga Sô, đã thúc đẩy các nhà lãnh đạo Nga Sô phải thay thế các
giá trị tiêu chuẩn chiến lược
và giai đoạn của thuyết Cộng Sản. Và như thế thì vần đề đã rõ, bài học của Nga Sô chứng minh rằng,
phương pháp độc tài Đảng trị Cộng Sản
không thể
bảo đảm được
sự thành công của một công cuộc phát triển dân tộc toàn diện, bằng cách Tây phương hóa, như chúng ta đã định nghĩa.
Nếu bây giờ, chúng ta lại giới hạn mục đích công cuộc phát
triển, chỉ trong phạm vi một sự thâu thập kỹ thuật Tây phương, thì phương pháp độc tài Đảng trị Cộng Sản,
thật sự, có nhiều hiệu lực như
các nhà lãnh đạo đã bị phương
pháp đó cám dỗ mong tưởng
không? Tiêu chuẩn thành công hay thất bại của một công cuộc thâu thập kỹ thuật
Tây phương
là, như
chúng ta đã biết, sự thâu thập có hay không lên được đến mức độ chế ngự được khả năng sáng tạo kỹ thuật Tây phương. Theo tiêu chuẩn đó, các kiến
thức hiện tại chưa
cho phép chúng ta trả lởi đích xác câu hỏi trên, vì kỹ thuật Tây phương vẫn còn đang ở trong thời kỳ
phát triển hùng mạnh và các quốc gia ngoài Tây phương vẫn còn đang nỗ lực chế ngự các
kỹ thuật đó cho kỳ được.
Chúng ta chỉ có thể có hai nhận xét. Từ khi nước Anh mở màn cho công cuộc phát
triển dân tộc đến nay, trong xã hội Tây phương nhiều quốc gia đã thực hiện công
cuộc phát triển kỹ thuật của mình. Sau Anh, nước Đức, nước Pháp, nước Mỹ, nước Ý và nhiều quốc gia nhỏ ở Bắc Âu,
Tây Âu và Đông Âu đều lần lượt
thực hiện công cuộc phát triển kỹ thuật. Các thuộc địa di dân của Tây phương như Úc châu, Tây Tây Lan và Nam Phi
cũng có thể kể vào số các quốc gia trên.
Trong tất cả các quốc gia trên, không có một quốc gia nào đã
cần đến phương
pháp độc tài đảng trị để thực hiện công cuộc phát triển kỹ thuật của mình.
Ngoài Tây phương,
nước Nhật, nước Nga và Thổ Nhĩ Kỳ đã thực hiện
công cuộc phát triển kỹ thuật. Ấn Độ và Trung Hoa đang dồn nỗ lực vào công cuộc
phát triển. Nghĩa là, ngoài Tây phương,
nếu có quốc gia đã thực hiện công cuộc phát triển kỹ thuật bằng phương pháp độc tài đảng trị như Nga, thì cũng có những quốc gia như Nhật đã thực hiện công cuộc phát
triển kỹ thuật đến một trình độ không kém, bằng một phương pháp không phải là phương pháp độc tài đảng trị.
Như
thế thì, trong xã hội Tây phương,
không có một công cuộc phát triển kỹ thuật nào đã được thực hiện bằng phương pháp độc tài đảng trị. Ngoài xã
hội tây phương,
phương pháp độc tài đảng trị không giữ
độc quyền thực hiện công cuộc phát triển kỹ thuật. Riêng đối với Việt Nam chúng
ta, ngoài những sự kiện phân tích trên đây, chúng ta đã thấy rằng hoàn cảnh
lịch sử và vị trí địa dư
của chúng ta không cho phép chúng ta áp dung một phương pháp độc tài đảng trị trong công
cuộc phát triển của chúng ta.
THĂNG BẰNG ĐỘNG
TIẾN
Trong căn bản, chấp nhận áp dụng phương pháp độc tài đảng trị là đã lựa
chọn con đường
dễ nhất, giữa hai con đường.
Việc lãnh đạo một tập thể cũng phức tạp như là đời sống. Nếu đời sống nào cũng
là một thăng bằng động tiến giữa lực lượng phá hoại và lực lượng kiến thiết, hay là một sự hòa hợp giữa hai khí âm và dương, thì vũ trụ cũng là một thăng
bằng động tiến giữa những lực lượng
có những ảnh hưởng
trái ngược
và chống đối nhau.
Luật thăng bằng động tiến là một luật thiên nhiên của vũ
trụ, áp dụng cho các hiện tượng
trong thế giới minh mông và bao la của các tinh tú, cũng như cho các hiện tượng thiếu cực, và vô hình của các
nguyên tử. Đời sống của nhân loại, trong mọi lĩnh vực và trong mọi giới hạn,
đều do luật thăng bằng động tiến
chi phối. Vì thế cho nên, sống hợp với vũ trụ là sống theo luật thăng bằng động
tiến, nghĩa là trong mọi trường
hợp, trước
tiên, tìm cho được
hai đối tượng
nào phải chịu luật thăng bằng động tiến và sau đó con đường sống là nuôi dưỡng và phát triển sự thăng bằng đã
tìm thấy.
Ngược
lại, con đường
chết, không hợp với vũ trụ là phá hủy sự thăng bằng đó. Việc lãnh đạo một tập
thể là việc giữ thăng bằng giữa những khối của tập thể, bởi vì quyền lợi của
mỗi khối khác nhau, là việc giữ thăng bằng giữa nhu cầu dài hạn của tập thể và
nhu cầu ngắn hạn của đời sống của các phần tử trong tập thể, là việc giữ
thăng bằng giữa sinh lực bành trướng
của nội bộ và áp lực bên ngoài đưa
vào. Nếu chúng ta lại nhớ rằng các thăng bằng nói trên không phải là thứ thăng
bằng chết, thăng bằng tỉnh chỉ, mà là một thứ thăng bằng sống, thăng bằng động
tiến, thì chúng ta nhận thức rằng lúc nào người lãnh đạo cũng phải hết sức linh
động, để mỗi lúc, thay thế một trạng thái thăng bằng đã bị phá vỡ, bằng một
trạng thái thăng bằng mới thích nghi với sự biến chuyển của tình thế.
Và tất cả công tác trên lại phải được thi hành trong khuôn khổ một chương trình đã hoạch định, và với một
mục đích bất biến. Chúng ta có thể hình dung được một cách cụ thể công việc của người lãnh đạo bằng hình ảnh rất thông
thường của người cỡi xe đạp. Người cỡi xe đạp lúc nào cũng phải dời
đổi vị trí của trọng tâm của toàn bộ hệ thống người và xe đạp, để duy trì một thăng
bằng luôn luôn thay đổi tùy theo tình trạng của con đường. Sự thăng bằng của người cỡi xe đạp giữ được dễ dàng khi nào xe đạp tiến tới. Người cỡi xe đạp là hình ảnh cụ thể rất
trung thành của một trạng thái thăng bằng động tiến. Lúc nào xe đạp tiến là
thăng bằng còn giữ được.
Xe đạp ngừng, thăng bằng mất. Có tiến tới mới có thăng bằng, có thăng bằng mới
có tiến. Đó là căn bản của một trạng thái thăng bằng động tiến.
Vì những lý do trên mà chọn phương pháp độc tài đảng trị để lãnh
đạo, là đương
nhiên không thừa nhận sự cần thiết phải duy trì trạng thái thăng bằng động
tiến, giữa nhu cầu dài hạn của tập thể và nhu cầu ngắn hạn của đời sống của
những phần tử của tập thể. Chọn như
thế có nghĩa là, thay vì cố gắng giữ thăng bằng giữa hai lực lượng tương phản, đã ngã hẳn về một lực lượng. Sự giữ thăng bằng động tiến bao
giờ cũng khó hơn sự tự buông cho ngã về với một lực lượng. Cũng như giữ cho xe đạp vững và tiến tới bao
giờ cũng khó hơn để cho xe đạp ngã hẳn về một bên và đứng lại.
Vì vậy mà chọn phương pháp lãnh đạo độc tài đảng trị với hy vọng thỏa mãn nhu
cầu dài hạn của tập thể bằng cách bóp nghẹt nhu cầu ngắn hạn của nhân dân là
chọn một con đường
dễ, sánh với con đường,
trong đó lúc nào cũng phải giữ một thăng bằng động tiến giữa hai nhu cầu nói
trên. Và đương
nhiên con đường
dễ không phải lúc nào cũng là con đường sống. Riêng hoàn cảnh của Việt Nam, như chúng ta đã thấy, con đường sống không phải là con đường dễ.
Lý luận trên đây lại cho chúng ta thấy rõ rằng khuôn khổ
chính trị trong đó việc sử dụng cái vốn nhân lực và tài nguyên rất đỗi quan
trọng. Vì vậy sau này chúng ta sẽ trở lại vấn đề này một lần nữa một cách chi
tiết hơn.
NHƯỢC ĐIỂM MỘT:
DÂN SỐ ÍT
Cái vốn nhân lực của chúng ta cũng là đáng kể. Theo các con
số đáng tin cậy nhất, miền Bắc hiện nay có 17 triệu dân và miền Nam 14 triệu.
Hơn ba chục triệu dân là xấp sỉ dân số của Nhật lúc bắt đầu Tây phương hóa. Tuy nhiên, vào giữa thế kỷ
19, khi Nhật Bản mở cửa đón tiếp văn minh Tây phương, các lực lượng kinh tế trên thế giới, ví dụ,
Anh, Pháp hay Đức đều có một dân số tương đương.
Ngày nay tình thế đã khác. Sự nghiên cứu những phương pháp sản xuất kỹ thuật khả dĩ
sinh lợi nhiều nhất, đồng thời với những kỹ thuật sản xuất càng ngày càng tinh
vi, đã dẫn dắt đến việc tập trung các cơ sở kỹ nghệ lại thành những phương tiện sản xuất vĩ đại. Đồng thời, những khối kinh tế thích
nghi với những phương
tiện trên cũng bành trướng
theo cùng một nhịp. Ngày nay những khối kinh tế kỹ nghệ sống mạnh được nhờ sản xuất nhiều và tiêu thụ
nhiều phải là những khối to lớn như
Mỹ, khối Nga hay khối Trung Cộng đang hình thành. Sự thật này hiển nhiên cho
đến đỗi, ngay các khối kinh tế kỹ nghệ Tây Âu khác, đều đến một trình độ phát
triển đáng kính, muốn tồn tại cũng đang phải nỗ lực hợp nhất lại thành một khối
một để đương
đầu với các khối kinh tế khác trên thế giới.
Trên đây lại là một sự kiện chỉ cho chúng ta thấy một lần
nữa, tai hại của sự lỡ cơ hội của chúng ta, bởi vì điều kiện phát triển lúc bấy
giờ ít khắc nghiệt hơn này nay. Và nếu chúng ta lại lỡ cơ hội lần thứ hai này
nữa thì không cần phải nói, điều kiện phát triển sau này lại còn khắc nghiệt
hơn nữa. Nhất là nếu Trung Cộng thực hiện được công cuộc phát triển dân tộc của
họ ngay trong cơ hội này, điều mà phần đông đều cho là rất có thể.
NHƯỢC ĐIỂM HAI:
THIẾU TÍNH KHÍ
Bản tính của người
Việt Nam lại cần cù và chịu khó, và bẩm chất rất là thông minh. Sự khiếm khuyết
về tính khí không phải là một trở lực bởi vì đó là một đức tính mà giáo dục có
thể đào tạo được,
trong khi khiếu thông minh là một thiên tính. Sự khiếm khuyết về tính khí do
nhiều nguyên nhân lịch sử gây ra, trong số đó có những yếu tố mà chúng ta đã
nhắc đến trong đoạn trên đây về vấn đề Nam tiến của dân tộc. Ngoài ra, tình
hình rối loạn ở nội bộ trong mấy thế kỷ liền là một trở lực vô cùng to tát cho
sự phát triển của tính khí. Tiếp theo đó sự thống trị của Pháp, làm tan rã xã
hội Việt Nam, càng thúc đẩy sự tiêu diệt tính khí của ngƣời Việt Nam.
Bởi vì tính khí xây dựng, trước hết, trên căn bản của một sự tin
tưởng mãnh liệt vào các giá trị tiêu
chuẩn của xã hội. Các giá trị tiêu chuẩn bị mất, thì tính khí cũng không còn.
Trong đời sống của một tập thế, tính khí của mỗi cá nhân cần thiết cho tập thể
hơn là các đức tính khác về lý trí kể cả bẩm chất thông minh. Nhưng chỉ có lối sống tập thể mới phát
huy được
tính khí, vì thế cho nên, các môn thể thao tập thể đóng góp rất nhiều vào công
cuộc đào tạo tính khí.
Chúng ta càng nhận thấy sự cần thiết của tính khí đối với
tập thể hơn cả các đức tính khác, khi chúng ta biết rằng các sử gia đều công
nhận sự thành công của người
Anh trong lịch sử là nhờ tính khí mà nền giáo dục đã hun đúc cho họ được đến một cao độ hiếm có, và được phổ cập rộng rãi trong đại chúng.
Vì thế cho nên, vấn để đào tạo tính khí là một nhiệm vụ vô
cùng khẩn yếu cho công cuộc giáo dục của chúng ta lúc này. Trong công cuộc Tây
phương hóa, sự thâu thập các kiến thức
của văn minh Tây phương
là một điểm quan trọng như
thế nào chúng ta đã biết. Nếu phải cần một mức để so sánh, chúng ta có thể nói
rằng nhiệm vụ đào tạo tính khí cho nhân dân lại còn quan trọng hơn nhiệm vụ
truyền bá những kiến thức mới của Tây phương.
Tuy nhiên, chúng ta không nên quên rằng một nhược điểm chính của cái vốn nhân lực
chúng ta là sự thiếu kỹ thuật trong mọi lĩnh vực. Sở dĩ vấn đề trang bị về kỹ
thuật không được
đặc biệt đề cập đến trong đoạn này, là vì công cuộc Tây phương hóa đương nhiên gồm sự trang bị về kỹ
thuật đối với cái vốn nhân lực của chúng ta.
NHƯỢC ĐIỂM 3:
VÔ TỔ CHỨC
Nhược
điểm thứ ba của cái vốn nhân lực của chúng ta là sự vô tổ chức. Như chúng ta đã thấy, ở trên, trong
đoạn nói về hậu quả của cuộc Nam tiến của chúng ta, nhân dân Việt Nam, nhất là
ở Nam miền Trung và miền Nam, thiếu tinh thần sống tập thể, bởi vì tổ chức hạ
tầng của chúng ta không có. Đó là một nhược điểm vô cùng tai hại bởi vì tập thể quốc gia cần đòi hỏi
ở ngƣời dân một tinh thần tập thể mà không ai hun đúc cho họ trong mấy thế kỷ.
Chúng ta không bàn đến sự tổ chức quần chúng chặt chẽ, như một tổ chức quân đội, theo lối Cộng
Sản. Mục đích của Cộng Sản vượt
xa sự đưa
quần chúng vào khuôn khổ một lối sống tập thể, bởi vì Cộng Sản nhắm trước tiên mục tiêu chặt đứt hết dây
liên hệ của người
dân, trên các lĩnh vực gia đình, xã hội và tôn giáo, thay thế vào đó bằng những
dây liên hệ duy nhất của đảng, để biến người dân thành một bộ phận hoàn toàn dễ điều khiển của một bộ
máy chung mà họ là những người
sử dụng.
Không nói chi đến hình thức tổ chức cực đoan đó, ngay đến
hình thức tổ chức tôn trọng tự do cá nhân đến đỗi, nhiều người quen gọi nó là tự do phóng túng,
của nhiều quốc gia Tây phương,
chúng ta cũng không có. Ngoài một hệ thống hành chánh, thời kỳ thống trị của đế
quốc Pháp đã để lại cho chúng ta một xã hội hoàn toàn vô tổ chức. Chính cái tổ
chức, có vẻ chặt chẽ, của các làng mạc của chúng ta ở miền Bắc cũng bị lung lay
đến tận gốc rễ. Ngoài tổ chức gia đình ra, người dân Việt Nam, lúc bấy giờ, không
còn biết một tổ chức xã hội hay chức nghiệp nào nữa.
Song song với một xã hội vô tổ chức và rời rạc, một hệ thống
hành chánh chuyên phục vụ quyền lợi của kẻ thống trị. Đó là một phác họa thô sơ
nhưng xác đáng của xã hội chúng ta.
Trong hoàn cảnh vô tổ chức như
vậy, không có một công tác gì của tập thể có thể thực hiện được. Nếu ngày nay, chúng ta bắt tay
vào một công cuộc vĩ đại, như
công cuộc Tây phương
hóa để phát triển dân tộc, chắc chắn chúng ta không thể làm gì được với tình trạng vô tổ chức đó. Và
công việc đầu tiên mà chúng ta phải làm trước khi bắt tay vào công cuộc Tây phương hóa là tổ chức cái vốn nhân lực
của chúng ta
TỔ CHỨC QUẦN
CHÚNG
Vấn đề tổ chức quần chúng quan trọng đến mức quyết định sự
thành công hay thất bại của chúng ta sau này. Bất cứ trong xã hội nào, Tự Do
hay Cộng Sản, các tổ chức quần chúng đều có, và đương nhiên, đóng vai trò trung gian
giữa chính quyền và các cá nhân.
Không có tổ chức quần chúng, chính quyền không đi tới với
nhân dân được.
Không có tố chức quần chúng, nhân dân không làm sao bày tỏ ý kiến cho chính
quyền. Các tổ chức quần chúng còn là những yếu tố quân bình giữa nhu cầu dài
hạn của tập thể và nhu cầu ngắn hạn của các phần tử trong tập thể. Các tổ chức
quần chúng ở xã hội Tự Do hay Cộng Sản đều có một vai trò như nhau, chỉ khác một điều là ở xã hội
Tự Do các tổ chức quần chúng do nhân dân tổ chức và điều khiển, với sự kiểm
soát của chính quyền, còn ở trong xã hội Cộng Sản các tổ chức quần chúng đều do
chính quyền tổ chức và điều khiển.
Trong trường
hợp của chúng ta, trong khi quần chúng của chúng ta còn quen lối sống rời rạc
và chưa
có ý thức tập thể, sáng kiến hợp thành tổ chức chắc chắn không thể phát sinh từ
trong nhân dân. Và kinh nghiệm tổ chức và điều khiển cũng không làm sao dồi dào
được. Do đó, sự hướng dẫn của chính quyền rất cần
thiết trong lúc đầu.
Chúng ta cần ý thức rõ rằng, sự hướng đẫn tổ chức quần chúng, như chúng ta quan niệm, không thể là
một sự xâm phạm tự do cá nhân. Trong một tập thể, phải có sự thăng bằng động
tiến giữa nhu cầu dài hạn của tập thể và nhu cầu ngắn hạn của các phần tử của
tập thể. Nếu xã hội Cộng Sản là một trạng thái, trong đó nhu cầu của cá nhân
hoàn toàn bị hy sinh cho nhu cầu của tập thể, thì trong xã hội chúng ta hiện
nay, nhu cầu của tập thể hoàn toàn bị hy sinh cho nhu cầu của một số ít cá
nhân.
Trong hai trường
hợp sự thăng bằng động tiến đều bị đổ vỡ, cho nên xã hội chúng ta hiện nay
không tiến đƣợc, mà xã hội Cộng Sản tiến một cách miễn cưỡng. Ngoài ra, sự hướng dẫn của chúng ta không thể xem
là một sự xâm phạm tự do cá nhân được.
Bởi vì mục đích của chúng ta, khuyến khích và hướng dẫn các tổ chức quần chúng, là
đặt cho mỗi cá nhân thêm nhiều dây liên hệ xã hội, nghề nghiệp, văn hóa, kinh
tế, nhờ đó mà quyền lợi của cá nhân được bảo đảm hơn từ trước tới nay, khi cá nhân chỉ có những sợi dây liên hệ gia
đình và quen thuộc. Trong khi mục đích của Cộng Sản là chặt hết các dây liên hệ
và thay thế vào đó bằng dây liên hệ duy nhất giữa cá nhân và Đảng.
TÍNH CÁCH THIẾT
YẾU CỦ TỔ CHỨC QUẦN CHÚNG
Chúng ta cần phải nhấn mạnh đến tính cách cần thiết của tổ
chức quần chúng. Trong một tình thế bình thường, các tổ chức quần chúng đã là
những bộ phận thiết yếu cho sự điều hòa đời sống của một quốc gia. Không có tổ
chức quần chúng huyết mạch của quốc gia không chạy được từ trung ư ơng xuống hạ tầng,và không trở về được từ hạ tầng đến trung ương. Nguồn sống bị chặn nghẹt. Trong
những giai đoạn quyết định của một cộng đồng sự cần thiết của tổ chức quần
chúng cho tập thể quốc gia lại tăng thêm bội phần. Không có tổ chức quần chúng
việc lãnh đạo quốc gia không làm sao thực hiện được. Nhân dân không biết hướng mà đi và người lãnh đạo không làm sao hướng dẫn quần chúng được.
Xưa
kia, trong xã hội Việt Nam, các làng mạc tự trị là những tổ chức quần chúng có
tính cách xã hội. Bộ máy hành chánh của triều đình bao trùm lên trên các tổ
chức quần chúng đó. Trong các vùng của lãnh thổ Việt Nam, nơi nào mà tổ chức
làng mạc đã lỏng lẻo, như
phía Nam miền Trung và miền Nam, thì nơi đó, tập thể quốc gia mất giá trị và
biện pháp hành chánh mất hiệu quả. Như thế cũng đủ cho chúng ta nhận thấy tính cách cần thiết của
các tổ chức quần chúng và sự vô hiệu lực, đối với quốc gia, của bộ máy hành
chánh nếu không có tổ chức quần chúng.
Sở dĩ chúng ta mất ý thức quần chúng và không quan niệm được tính cách cần thiết của sự tổ
chức quần chúng trong đời sống của quốc gia, vì trong gần một trăm năm, chúng
ta đã sống trong chế độ thống trị của đế quốc, trong đó tổ chức quần chúng bị
tuyệt đối cấm đoán. Đế quốc thống trị dân tộc chúng ta chớ không lãnh đạo dân
tộc chúng ta. Thực dân khai thác dân tộc bị trị, và không cần biết phải dẫn dắt
dân tộc bị trị đi đường
nào và đến mục đích gì.
Vì thế cho nên, như chúng ta đã thấy, cuộc Tây phương hóa của chúng ta trong thời kỳ
Pháp thuộc hoàn toàn không mục đích và không đường hướng dẫn. Chủ định đã như vậy, thì nhà cầm quyền Pháp cần gì
đến tổ chức quần chúng. Ngược
lại họ cần phải cấm đoán mọi hình thức tổ chức quần chúng để giữ cho nhân dân
sống rời rạc và không đoàn tụ được.
Trong điều kiện đó, một bộ máy hành chánh, chuyên lo phục vụ quyền lợi cho kẻ
thống trị, đủ để cho nhà cầm quyền Pháp cai trị xứ này. Nhiệm vụ của bộ máy
hành chánh của Pháp, đối với dân chúng Việt Nam chỉ là bảo vệ cuộc trị an, để
cho các quyền lợi kinh tế của Pháp được bảo đảm. Vì vậy cho nên, các tổ chức quần chúng đối với
người Pháp, chẳng những không cần thiết
lại còn là những tổ chức phá rối trị an.
Như
thế chúng ta đã thấy rõ vì sao, dưới
thời Pháp thuộc các tổ chức quần chúng không thể sinh sống được. Những người quen thuộc với nề nếp cai trị của
Pháp, không quan niệm được
rằng sự lãnh đạo của một quốc gia không phải là giữ cho được một cuộc trị an. Vì nhiệm vụ của
bộ máy lãnh đạo quốc gia của chúng ta ngày nay nhất định không phải là nhiệm vụ
của bộ máy cai trị của Pháp xưa
kia. Chúng ta cần giải quyết những vấn đề của dân tộc mà người Pháp không cần biết đến. Chính vì
không nhận định được
sự kiện này mà tất cả các chính phủ Việt Nam, do đế quốc Pháp thành lập, hoặc
do đế quốc Pháp chi phối đều thất bại.
Họ bị thất bại vì họ tiếp tục công cuộc trị an của người Pháp, trong khi đó vấn đề chính
là lãnh đạo quốc gia, nghĩa là phải giải quyết các vấn đề của dân tộc trong
giai đoạn này. Trong khi những chính phủ ấy lo công cuộc trị an, thì nhân dân
sẽ theo những người
nào giải quyết được
các vấn đề của dân tộc.
Tóm lại, nếu ngày nay chúng ta sử dụng được một bộ máy hành chánh hoàn bị như bộ máy hành chánh của người Pháp trước đây, chúng ta cũng không giải
quyết được
vấn đề Việt Nam hiện nay, bởi vì vấn đề hiện nay không phải là một vấn đề hành chánh
và sự trị an, mà là một vấn đề to tát và quan hệ hơn nhiều: Vấn đề lãnh đạo một
dân tộc trong một giai đoạn quyết liệt.
Nếu chúng ta không giải quyết được, thì người khác sẽ thay chúng ta mà giải
quyết.
TỔ CHỨC CHÍNH
TRỊ VÀ TỔ CHỨC QUẦN CHÚNG
Các tổ chức quần chúng có phải là những tổ chức chính trị
không?
Tổ chức chính trị là tổ chức của một đảng chính trị tạo ra
để qui tụ những người
cùng một xu hướng
chính trị và sẵn sàng góp sức tranh đấu cho xu hướng chính trị đó. Tổ chức quần chúng
là một tổ chức gồm những người
làm cùng một nghề, hoặc cùng làm việc chung tại một vị trí, hoặc những người cùng đeo đuổi một mục đích xã
hội, văn hóa hay thể thao, hoặc những người cùng một quyền lợi kinh tế.
Như
vậy, tổ chức quần chúng không phải là một tổ chức chính trị. Tuy nhiên, một tổ
chức quần chúng gồm những công dân của quốc gia, vì thế, lúc có cơ hội, một tổ
chức quần chúng vẫn có thể có thái độ chính trị và ảnh hưởng chính trị. Một tổ
chức quần chúng không phải là một tổ chức chính trị. Ảnh hưởng chính trị của một tổ chức quần
chúng quan trọng hay không quan trọng tùy thuộc sự tổ chức quần chúng có hàng
ngũ chặt chẽ hay là không có và rộng lớn hay không.
Vì ảnh hưởng
chính trị đương
nhiên phải có của các tổ chức quần chúng, mà có sự lầm lẫn vô tình hay cố ý
giữa các tổ chức quần chúng và tổ chức chính trị. Sự lầm lẫn vô tình của người chỉ nhìn thấy ảnh hưởng chính trị của các tổ chức quần
chúng. Sự lầm lẫn cố ý của những người lợi dụng các tổ chức quần chúng để làm hậu thuẫn chính
trị.
Nhưng
các tổ chức quần chúng, chỉ đóng được
đúng vai trò chính của nó trong guồng máy quốc gia, khi nào giữ được bản chất không chính trị mặc dù
vẫn có ảnh hưởng
chính trị đương
nhiên không thể tránh được.
Trong tình trạng chiến tranh ngày nay, các vấn đề tổ chức quần chúng lại còn
trở nên quan trọng hơn nữa. Bên nào tổ chức được quần chúng, bên đó sẽ thực hiện được chương trình phát triển của mình và sẽ
nắm thắng lợi.
VỐN VỀ TÀI
NGUYÊN
Vốn về tài nguyên của chúng ta không thể nói là phong phú
bởi vì nhiều nhiên liệu quan trọng về kinh tế hay quốc phòng chưa tìm thấy ở lãnh thổ Việt Nam.
Những nhiên liệu thuộc về năng lực thiết yếu cho kỹ nghệ như dầu hỏa và uranium chúng ta chưa có, than đá rất nhiều và thủy lực
có thể khai thác được.
Nhiều quặng mỏ ở miền Bắc đã tìm thấy hoặc đã khai thác và khoáng mạch chắc
chắn còn nhiều trong dãy Trường
Sơn nhưng
sự truy tầm chưa
được tổ chức có phương pháp.
Gần năm ngàn cây số bờ biển, sông Cửu Long, sông Đồng Nai và
hệ thống kinh rạch chi chít ở miền Nam chứa đựng một nguồn thủy lợi dồi dào chưa được khai thác đúng mức. Đồng bằng
sông Nhị Hà và sông Cửu Long là những vùng đất phì nhiêu. Một kỹ thuật canh tác
hợp lý có thể tăng gia mức sản xuất ít nhất lên đến hai trăm phần trăm. Những
cánh đồng minh mông vùng cao nguyên có thể chỉnh đốn thành những vùng chăn nuôi
đầy triển vọng. Các rừng, phía Bắc miền Bắc, dọc theo dãy Trường Sơn và các khu rừng già phía
Đông miền Nam và các khu rừng ngập nước phía Tây tàng trữ những vốn thiên sản dồi dào, nếu được giữ gìn và tu bổ. Các vùng đất đỏ và đất xám miền Nam
và Cao nguyên miền Trung là những vùng đất phì nhiêu để trồng những loại cây kỹ
nghệ. Một phần nhỏ đã được
khai phá trồng cao su và vài loại khác. Nhưng phần lớn vẫn là cái vốn chưa xài tới.
Bản kê khai sơ lược trên đây chỉ cho chúng ta thấy cái vốn to tát về tài
nguyên còn đang nằm ngủ trong tay chúng ta. Để khai thác cái vốn đó, chúng ta
chỉ có một cái vốn nhân lực gồm tám mươi lăm phần trăm là nông dân hoặc làm những nghề không rõ
rệt, năm phần trăm là quân nhân, tám phần trăm là công nhân.
Mức sống trung bình của số người làm thành cái vốn nhân lực trên
đây rất thấp. Mức lợi tức ước
lượng trung bình cho mỗi người, theo các tài liệu nghiên cứu
đáng tin cậy nhất, lối 60 Mỹ kim một năm, lối 5.000 bạc Việt Nam. Để có thể so
sánh chúng ta nên biết rằng lợi tức trung bình hằng năm của mỗi người dân Ân Độ là 57 Mỹ kim, Trung Hoa
là 27 Mỹ kim, Nhật Bản là 100 Mỹ kim. Chúng ta lại biết rằng những quốc gia nào
có một mức lợi trung bình cho mỗi ngƣời dân dưới 100 Mỹ kim kể là những quốc gia
chưa có mở mang. Nếu mức lợi tức trung
bình lên được
100 đến 300 Mỹ kim, thì quốc gia được
kể vào hạng kém mở mang. Từ 300 đến 500 Mỹ kim thì kể là khá mở mang. Từ 500
đến 800 kể là đã mở mang và trên 800 thì kể là mở mang đến cao độ.
Trong các nước
kể là mở mang đến cao độ có những nƣớc Mỹ, Anh, Thụy Sĩ và một vài nước phía Bắc Âu châu. Những con số
trên đây cho chúng ta thấy rằng mức sống của dân chúng Việt Nam rất là thấp. Vì
vậy cho nên, xu hướng
tự nhiên của người
lãnh đạo là khai thác cho đến mức cái vốn tài nguyên của chúng ta để nâng cao
mức sống của nhân dân. Nhưng
vấn đề phát triển dân tộc không thể theo một chiều hướng duy nhất thỏa mãn nhu cầu ngắn
hạn của các phần tử của tập thể. Chính trong vấn đề phát triển kinh tế này, hơn
vấn đề nào hết, bởi vì nó sẽ liên quan trực tiếp và nặng nề đến đời sống thường ngày của nhân dân, luật thăng
bằng động tiến cần phải được
tôn trọng.
Điều cốt yếu là thực hiện được công cuộc phát triển mà không gây
những thống khổ cho toàn dân trong nhiều thế hệ. Riêng về trường hợp của Việt Nam, vì vị trí địa
dư, vì hoàn cảnh lịch sử và vì mục
tiêu của công cuộc phát triển mà chúng ta sẽ bàn đến với chi tiết ở đoạn sau,
công cuộc phát triển có thể thực hiện được trong điều kiện thăng bằng kể trên.
NHU CẦU DÀI HẠN
CỦA TẬP THỂ
Vậy nhu cầu dài hạn của tập thể đòi hỏi những gì? Trong công
cuộc phát triển dân tộc, khai triển kinh tế là một phần chính yếu. Và trong
công cuộc khai triển kinh tế trang bị máy móc kỹ nghệ cho xứ sở là phần chính
yếu. Sự thực hiện công cuộc trang bị kỹ nghệ của tất cả các quốc gia trên thế
giới, trong xã hội Tây phương
cũng như
ngoài xã hội Tây phương,
kể cả nước
Nga và nước
Tàu, đều phải nhờ viện trợ ngoại quốc. Viện trợ kỹ thuật là một sự kiện đương nhiên, bởi vì bước đầu của công cuộc phát triển là
thâu thập kỹ thuật.
Nhưng
sự viện trợ tư
bản cũng thiết yếu ngang hàng hay hơn sự viện trợ kỹ thuật. Sự viện trợ tư bản ngoại quốc có thể trực tiếp hay
gián tiếp, dưới
hình thức quà biếu hay dưới
hình thức cho vay. Và tùy trường
hợp và tùy cơ hội, khối viện trợ tư
bản ngoại quốc nhiều hay ít. Nhưng
trong trường
hợp nào, viện trợ tư
bản ngoại quốc cũng đóng vai trò trụ cốt. Và chưa có một trường hợp phát triển nào đã thực hiện
được chỉ bằng sự nỗ lực thắt lưng buộc bụng của dân chúng trong
quốc gia tìm phát triển.
Tuy nhiên có những cơ hội thuận lợi cho các quốc gia cần
trang bị kỹ nghệ, cũng như
có những hoàn cảnh nghiêm khắc hơn. Trong trường hợp trên khối viện trợ tư bản ngoại quốc lên cao và đài thọ
một tỷ lệ quan trọng các nhu cầu trang bị kỹ nghệ. Phần nhỏ còn lại sẽ do lợi
tức của quốc gia liên hệ gánh chịu. Trong hoàn cảnh thuận lợi này, công cuộc
trang bị kỹ nghệ không trở thành một cái gánh nặng gian lao và đau khổ cho dân
chúng.
Trong trường
hợp thứ hai, khối viện trợ tư
bản ngoại quốc không được
dồi dào, và chỉ đài thọ được
một tỷ lệ nhỏ của nhu cầu trang bị kỹ nghệ. Phần lớn còn lại phải do lợi tức
của quốc gia liên hệ gánh chịu. Và trong hoàn cảnh nghiêm khắc đó, công cuộc
trang bị kỹ nghệ trở thành một cái gánh đau khổ nặng nề cho dân chúng.
Trong trường
hợp phát triển thứ nhất có thể là trường hợp của một quốc gia nhỏ như quốc gia Việt Nam. Và trường hợp thứ hai là trường hợp đương nhiên của các khối dân to tát như khối dân Trung Cộng vì hai lý do dưới đây.
Sự phát triển của một nước nhỏ như quốc gia Việt Nam, không thể trở
thành một sự đe dọa cho ai cả, và do đó, sẽ không tạo một phản ứng thù nghịch
nào có thể gây trở lực cho công cuộc phát triển của chúng ta. Và một sự lãnh
đạo sáng suốt đủ tạo hoàn cảnh cho khối viện trợ tư bản ngoại quốc lên đến mức độ khả
dĩ bảo đảm cho một công cuộc trang bị kỹ nghệ không đau khổ cho dân chúng.
Trong khi đó, sự phát triển của một khối dân, như khối dân Trung Cộng, tự nó là một
sự đe dọa cho tất cả thế giới, dầu mà các nhà lãnh đạo Trung Cộng không có
những tham vọng bành trướng
như hiện nay. Và đương nhiên, những phản ứng thù nghịch
sinh rạ khắp nơi và dựng lên vô số trở lực cho công cuộc phát triển. Và một sự
lãnh đạo sáng suốt nhiều lắm cũng chỉ làm cho thuyên giảm được các trở lực trên, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ tạo được hoàn cảnh để cho viện trợ tư bản ngoại quốc tăng gia. Và công
cuộc trang bị kỹ nghệ nhất định sẽ vô cùng đau khổ cho toàn dân.
Giả sử mà, sự đe dọa cho cả thế giới của sự phát triển của
một khối dân số to tát như
khối Trung Cộng, không có thật sự, thì nhu cầu phát triển của khối đó cũng sẽ
là vô bờ bến, không có viện trợ tư
bản ngoại quốc nào thỏa mãn cho nổi. Trong khi đó, nhu cầu phát triển của một
quốc gia nhỏ, như
quốc gia Việt Nam, trong hiện tình quốc tế thế giới, có thể do viện trợ tư bản ngoại quốc thỏa mãn đến một tỷ
lệ quan trọng. Hoàn cảnh phát triển của Việt Nam và của Trung Hoa khác nhau là
như vậy. Trách nhiệm của người lãnh đạo, là trong mọi công cuộc
của dân tộc, tìm và tạo những yếu tố thuận lợi, không dẫn dắt đến sự tiêu hao
sinh lực của cộng đồng. Trong cộng cuộc phát triển dân tộc, sự tiết kiệm sinh
lực của cộng đồng vì vận mạng của các thế hệ tương lai, lại trở thành khẩn thiết
hơn nữa. ư
Như
thế thì, việc chấp nhận một khuôn khổ phát triển tiền chế theo lối Cộng Sản,
bất kể hoàn cảnh đặc biệt của chúng ta, là một hành động thiếu sáng suốt. Và sự
gắn liền vận mạng của Việt Nạm với vận mạng của Trung Cộng, trong giai đoạn
phát triển hiện nay, là một hành động di hại cho dân tộc.
ĐÓNG GÓP TRANG
BỊ KỸ NGHỆ
Các con số dưới
đây giúp cho chúng ta ý thức được
số lượng của phần đóng góp của lợi tức
quốc gia vào công cuộc trang bị kỹ nghệ cho từng quốc gia. Nƣớc Anh là nước đầu tiên trên thế giới đã thực
hiện công cuộc kỹ nghệ hóa. Nghĩa là lúc bấy giờ, nước Anh không có cần phải đương đầu với một sự cạnh tranh nào cả
mà cũng phải, trong mười
năm, truất trong tức lợi quốc gia hằng năm một số là mười bảy phần trăm, 17%, để bỏ vào vốn
trang bị kỹ nghệ. Như
vậy trong mười
năm đầu, và sau đó bách phân lần lần giảm xuống.
Nghĩa là đại cương
trong mười
năm, mỗi năm mỗi người
dân có làm ra được
100 đồng chỉ còn tiền được
riêng cho mình 83 đồng. Nếu Mỹ ngày nay trở nên một khối kinh tế mạnh nhất thế
giới, lúc bắt đầu kỹ nghệ hóa, đã phải mỗi năm truất mười lăm phần trăm, 15%, lợi tức quốc
gia để sung vào quỹ kỹ nghệ hóa. Trong trường hợp tương
tự, nước
Pháp đã phải bỏ vào đến mười
ba phần tram, 13%. Nước Đức đi sau, sự cạnh tranh bắt đầu
gay cấn, nên đã phải đóng vào quỹ kỹ nghệ hóa đến hai chục phần trăm, 20%, lợi
tức quốc gia trong những năm quyết liệt nhất.
Thời gian kỹ nghệ hóa càng dài thì gánh nặng nhân dân phải
đóng góp chia ra nhiều năm, có thể nhẹ đi nhưng không làm sao tránh được. Thời gian kỹ nghệ hóa càng ngắn
sự đóng góp của nhân dân dồn lại ít năm, lại càng nặng nề hơn và đòi hỏi nhiều
hy sinh to tát hơn.
Nhật Bản khi kỹ nghệ hóa, trong hai mươi bốn năm đầu từ 1890 đến 1914, mỗi
năm phải đóng góp 10 phần trăm lợi tức quốc gia vào quỹ trang bị kỹ nghệ; và
hai mươi
năm sau đó từ năm 1914 đến 1936, mỗi năm 18 phần trăm của lợi tức quốc gia.
Nước
Nga, muốn đi mau đã bắt buộc nhân dân phải đóng góp một cách bách phân lên tới
25 phần trăm, trong thời gian từ 1927 đến 1932 của kế hoạch ngũ niên đầu tiên,
và sau cùng sự đóng góp lên đến 27 phần trăm. Sự cùng khốn của dân chúng Nga Sô
lên đến tột độ. Và chỉ có một chính sách độc tài khốc liệt của Staline mới giữ
cho dân chúng không nổi loạn và đánh đổ chế độ Cộng sản. Và to lớn, và hùng
mạnh nhƣ nước
Nga mà suýt một chút nữa chế độ độc tài Cộng Sản đã bị sụp đổ vì dân chúng oán
ghét nên trong Đệ Nhị đại chiến đã hướng về kẻ xâm lăng, người Đức, như
là một ngƣời giải phóng.
Chỉ sự vụng về, và chính sách kỳ thị chủng tộc, của Đức Quốc
Xã đã đánh thức lòng công phẫn của dân chúng Nga đối với các nước Tây Âu và đã cứu chế độ Cộng Sản
khỏi phải bị tiêu diệt. Và chính tổ quốc của Cộng Sản đã được cứu thoát khỏi ngoại xâm không
phải vì lý thuyết Cộng Sản mà vì tinh thần dân tộc của nhân dân Nga. Sự kiện
này hàm nhiều ý nghĩa.
Sau cùng là Trung Hoa, đang thực hiện công cuộc kỹ nghệ hóa
bằng cách cưỡng
bách dân chúng đóng góp vào quỹ trang bị kỹ nghệ 16 phần trăm của lợi tức cho
năm đầu của kế hoạch ngũ niên thứ nhất, năm sau 18 phần trăm, và năm sau nữa 22
phần trăm. Và năm 1956 bách phân đã lên đến 25 phần trăm và từ năm 1957 hơn một
phần ba của lợi tức quốc gia đã phải bỏ vào quỹ trang bị kỹ nghệ. Vì thế, nếu
chúng ta nhớ rằng lợi tức của người
Trung Hoa thấp vào bậc nhất thế giới, chúng ta quan niệm được nỗi cùng khốn của dân Tàu trong
lúc này. Một mặt nhân lực bị huy động và khai thác triệt để; một mặt lợi tức
làm ra một trăm đồng, phải truất ra 33 đồng khỏi quỹ tiêu thụ, nghĩa là làm
việc phải nhiều hơn và ăn uống phải ít hơn. Vì thế cho nên, nếu không có một bộ
máy độc tài Đảng trị tuyệt đối vô nhân đạo, không làm sao mà giữ nổi hơn 700
triệu dân không nỗi loạn lật đổ chế độ Cộng Sản được.
(Hết phần III
C)
Ngô Đình Nhu (1910-1963)
Ngô Đình Nhu (1910-1963)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét