Sài Gòn năm 1968 tại ngã tư Lê Lợi-Công Lý, bên trái là nhà hàng Kim Sơn góc Lê Lợi-Nguyễn Trung Trực. (Hình: Flickr manhhai)
Văn Tiến Dũng thở phào nhẹ nhõm… Vậy là không có phản công tái chiếm như sau lần bỏ Khe Sanh (1968), chịu mất Quảng Trị 1972, lần bốn mươi thành phố miền Nam bị tấn công Tết Mậu Thân. Lần này quân Cộng Hòa, “bọn ngụy quân” đã bị bẻ gãy ngay xương sống. Ngày 16 Tháng Ba, một Chủ Nhật điêu linh tan nát dọc con đường đỏ sẫm đất núi và máu rây. Đoàn di tản bị chận ở phía Đông Củng Sơn, bị cắt rời ở quận Phú Túc, bị đuổi đập từ Tây quận lỵ Phú Bổn.
Xe tăng cán ngang lên GMC, xe GMC hất xe đò xuống vực thẳm, cũng hất luôn những xe jeep của thành phần thuộc các đơn vị yểm trợ, chuyên môn của quân đoàn, tiểu khu Pleiku, cán qua những chiếc xe Dodge4 của địa phương quân chất đầy người già, trẻ em tan nát. Chiếc vespa của một gia đình chạy lông lốc, xiêu vẹo trên sưn đồi, đứa con, người vợ rơi tơi tả, người chồng, người cha rơi cuối cùng với chiếc xe vỡ toang trên mỏm đá!
Súng nổ…105, 155 pháo binh, XM72 của phía Cộng Hòa; 130 ly, 122 ly, B40, B41 Cộng Sản tất cả cùng hòa vào nhau thành một luồng hỗn âm tan tác làm rung rinh sắc núi mờ đục ánh nắng. Mặt tri bị chìm khuất trong khói xám. Có xác bà già ngồi dựa bờ đất lên bề đường, người khô quắp, không vết thương. Dấu hiệu sự chết chỉ được nhận biết nơi ổ mắt, mũi, miệng… Đám kiến rừng bò lúc nhúc quay quắt đánh hơi. Ba đứa trẻ mắt lạc thần ngồi nhìn đoạn đường hỗn loạn không cảm giác. Bé trai nhỏ nhất gục đầu trên gối chị ngủ lay lắt. Có tiếng bắn đi của sơn pháo thật gần.
Sư Đoàn 320 Điện Biên bắn thẳng xuống đoàn di tản không sai trật một viên đạn. Lính còn rõ phản ứng trú ẩn, chống cự, người dân chỉ biết đưa mắt nhìn lên nơi đặt súng, nơi có những tiếng nổ khô, ngắn trước khi bị bùng vỡ phá toang. Xác người tung lên theo đất bay bay. Cái chết không đơn giản, mau chóng bởi súng đạn. Chết còn bị nhận chìm từ từ trong lòng chiến xa khi chiếc xe tăng chúc đầu xuống đầu cầu nổi bắc qua sông Ba.
Chiếc cầu bắc vội mỏng manh không thể nào chứa nỗi sức nặng vạn con người, vạn chiếc xe… Chiếc tăng M48 như khối đá ấn mạnh xuống lòng chén nứt vỡ. Trong lòng xe có tiếng hét nghẹn, trên pháo tháp có đầu người ngoi ngóp. Người đạp lên đầu, lưng, vai người để được thở, được sống thêm vài giây ngắn. Chiếc xe chìm xuống im lặng, kéo theo, mang theo, đè xuống rất nhiều thây xác. Xích sắt điên cuồng đào xoáy giòng sông máu sẫm làm quẫy lên, tung tóe những tay, chân kẹp dính đâu dưới lườn xe.
Cuộc di tản lớn quá, quá lớn nên người ta không còn sức đâu nghĩ đến lần rút lui của Liên Đoàn 32 Biệt Động Quân và lực lượng địa phương thuộc Tiểu Khu Bình Long trấn đóng tại An Lộc, cũng trong ngày 1 Tháng Ba.
An Lộc, cách Sài Gòn một trăm cây số đường chim bay. Chiến tích lớn của năm 1972, nơi Lữ Đoàn I Nhảy Dù, Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân, Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Liên Đoàn 81 Biệt Kích đã đẩy lui những trận cường tập của các trung đoàn thuộc ba công trường 5, 7, 9 (sư đoàn bộ binh thuộc quyền chỉ huy của bộ tư lệnh lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam có cán bộ người Bắc làm khung cơ ở) và trung đoàn thiết giáp T54 phối hợp tăng cường, được ym trợ trực tiếp bởi pháo 130 ly hạng nặng.
Chiến tích An Lộc được mua bởi giá máu của ngàn con người ấy, bởi niềm tin, ý chí chiến đấu của miền Nam được thể hiện nay chỉ là một tiền đồn thụ động nằm trong tầm tác xạ của một dàn pháo cối đặt dầy xung quanh. Tồi tệ hơn nữa, cửa ngõ phía Nam của An Lộc, khu đồn điền Xa Cam bị quân Cộng Sản đóng chốt. Đường về Chơn Thành, phải qua tử huyệt này. Và khi An Lộc với Liên Đoàn 32 Biệt Động, Chơn Thành với Liên Đoàn 31 bị nhổ đi, bị xé lẻ ra Phan Rang, đến Tây Ninh, lui về tận Hố Nai thì từ căn cứ Lai Khê với Bình Dương-Sài Gòn, đoạn đường quá ngắn chỉ cần một ngày di chuyển với đôi chân. Nhưng bởi vết thương của Tỉnh Lộ 7 kéo dài theo hơn hai trăm cây số đường núi. Vụ triệt thoái An Lộc, Chơn Thành đành phải quên. Phải quên, dẫu cơn hấp hối từ, của trái tim sắp gần kề. Sài Gòn – Lai Khê đâu khoảng ba-mươi cây số, nửa giờ xe hơi.
Cuối cùng, đoàn di tản về đến Tuy Hòa ngày 25 Tháng Ba do Tiểu Đoàn 58 Biệt Động dẫn đầu. Trăm ngàn dân theo lính chạy loạn từ Kon Tum, Pleiku nay còn khoảng sáu chục ngàn người nơi trại tạm cư Đèo Rù Rì. 100,000 trừ đi 60,000 vậy đã chết bao nhiêu? Không ai có thể tính chính xác được số dân thiệt mạng. Người chỉ biết và đau với trưng hợp từng người thân, của mỗi gia đình, của chính thịt da mình.
Trên chiếc trực thăng từ phi trường Đông Tác (Tuy Hòa) về Nha Trang, viên thiếu tá ngồi ôm đứa con nhỏ, gục đầu nín thinh khi đứa bé chợt nhớ… Bà nội đâu hở ba? Trong đêm khuya nơi trại tạm cư Đèo Rù Rì, nghe những lời than vãn rời rạc lẫn tiếng khóc nấc nghẹn ghìm ghìm. Bãi biển Nha Trang từng khối người ngồi chập choạng dưới trăng khuya. Nha Trang cũng mất vào tay quân Cộng Sản vài ngày sau, 30 Tháng Ba, 1975, dẫu đơn vị chính quy Cộng Sản chưa kịp vào đến thành phố. Nếu kể thêm bi thảm của Huế, Đà Nẵng ở phía Bắc thì đã mất một nửa quê hương miền Nam chưa hết một Tháng Ba!

Ba.
Lần sụp vỡ Vùng II gây nên phản ứng dây chuyền vô cùng nguy hại đối với Vùng I/VNCH với thành phố lớn thứ hai sau Sài Gòn, thành phố Đà Nẵng, bản doanh Quân Đoàn I/Quân Khu I VNCH.
Đà Nẵng cũng là nơi Mỹ đổ quân, cũng một ngày Tháng Ba, 1965, nhằm mở rộng chiến cuộc trên toàn miền Nam, khắp vùng Đông Dương. Quân Khu I gồm Quảng Trị, Huế, Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Tính, Quảng Ngãi. Vùng đất lửa đối đầu với miền Bắc không khoan nhượng qua những thời điểm đẫm máu Mậu Thân 1968, Hạ Lào 1971, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Mới gần đây, còn nguyên dấu vết hung tàn ngọn lửa từ đầu hè 1972. Huế quả thật đã nhiều phen nếm sâu sự chết. Nhưng Huế vẫn sống. Huế luôn vượt sống.Thật ra Huế, Thừa Thiên vẫn sống được bởi sức nâng, nguồn bảo vệ từ một người anh em khốn khổ, người anh em chung cấu tạo đặc thù mà phải tinh tế lắm mới nhận ra âm sắc tiếng nói khác nhau qua con sông không đầy một trăm thước, sông Mỹ Chánh ngăn ranh Quảng Trị-Thừa Thiên, với hai thị xã đúng chiều dài bảy mươi cây số, Huế và Quảng Trị.
Vùng đất dựa núi và nằm cạnh biển với cửa Tùng, cửa Việt qua Thạch Hãn, sông Bồ, Mỹ Chánh, Hương Giang… Hai nơi khốn khổ, tội nghiệp nầy đã nâng nhau qua chiến tranh. Quảng Trị đã chịu phần thua thiệt đến đỗi bàng hoàng. Thành phố đã trở nên đống gạch vỡ vụn sau cơn địa chấn Xuân-Hè 1972. Tuy nhiên trong trận chiến Xuân-Hè 1972, Tướng Ngô Quang Trưởng đã có đủ quân số gồm các Sư Đoàn 1, 2, 3 Bộ Binh và hai sư đoàn tổng trừ bị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến để trấn giữ vùng lãnh thổ trách nhiệm đã phản công thành công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.
Nhưng bây giờ, 1975 không phải là năm 1972 khốc liệt ấy nữa, người Mỹ đã rút đi cùng bộ máy chỉ huy, tiếp vận tác chiến khổng lồ kể từ 27 Tháng Giêng, 1973, theo điều khoản ấn định bởi Hiệp Định Ba Lê. Và vấn đề xử dụng lại không quân với B52 dội bom cường tập như đã thực hiện suốt mùa Hè 1972 không thể nào tái lập với Tổng Thống Ford đã bị quốc hội đảng Dân Chủ kiểm soát, khóa tay. Chính phủ Mỹ hoàn toàn tê liệt sau vụ án chính trị Watergate.
Ngày 18 Tháng Ba, sau khi gặp Tướng Phú ở Nha Trang, ông thủ tướng “khôn ngoan nhất” của miền Nam Trần Thiện Khiêm bay ra Đà Nẵng gặp tướng Trưởng để truyền lại lịnh của tổng thống “Sẽ rút sư đoàn Dù; còn sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến sẽ trả lại cho Sài Gòn sau đó.” Tướng Trưởng không có gì tăng cường. Không còn gì hết. Tướng Trưởng cố gắng lần cuối. Ông bay về Sài Gòn ngày 19 Tháng Ba, họp cùng với các ông Thiệu, Khiêm, Viên và cả phó Tổng Thống Hương. Ông cam đoan có thể giữ được Huế, Đà Nẵng, nếu đừng lấy đi những lữ đoàn Dù, Thủy Quân Lục Chiến còn lại.
Ông Thiệu tỏ vẻ ngần ngại trước quyết định sẽ rút một phần nào về Vùng I. Để cụ thể thêm cho ý niệm trên, ông chuẩn bị đọc một bài diễn văn với ngôn từ mạnh mẽ tỏ rõ quyết tâm bảo vệ Huế. Nhưng khi Tướng Trưởng vừa trở lại Đà Nẵng, ông nhận tin Huế đang bị đánh mạnh. Ông gọi về Tướng Viên; ông Viên đẩy qua ông Thiệu. Tướng Trưởng đành phải nói thật “…Tổng thống nên hoãn lại bài diễn văn… Huế không thể giữ được.” Thật ra ông Thiệu hiểu rõ hơn ai hết khả năng cố thủ của Huế. Ông ta muốn dành viên đạn ân huệ cho chính tự tay Tướng Trưởng.

Cùng ngày 18 Tháng Ba, phó Đại Sứ Lehmann gởi điện văn về Tòa Bạch Ốc, nhờ chuyển bản tường trình đến Đại Sứ Martin đang chữa bệnh ở Bắc Carolina. Lehmann báo tin về khả năng phía VNCH có thể bỏ Huế với dấu hiệu chiến xa, thiết vận xa đang rút về Nam và Thủy Quân Lục Chiến bỏ Quảng Trị. Ông đại sứ biết được – đã đến lúc chính ông, không ai khác, phải chịu mối “khổ nhục kế” của quốc gia ông nơi xa. Tóm lại, thế trận được đặt trên tuyến phương trình kỳ cục: “Người Mỹ không biết ông Thiệu đang tính toán những gì. Sài Gòn thì hoàn toàn mù tịt về những gì đang xảy ra ở Hà Nội.” Nên không biết được rằng Hà Nội đã chấp thuận đề nghị của Văn Tiến Dũng (sau thành công quá lớn ở mặt trận Tây Nguyên) – Đánh rộng ra toàn miền Nam, khai triển thuận lợi từ Ban Mê Thuộc và Pleiku.
Từ Ban Mê Thuộc, Sư Đoàn F10 tiếp tục hành quân về đồng bằng theo quốc lộ số 21, Sư Đoàn 320 cắt miền Trung tại Tuy Hòa, đâm xuống Nha Trang. Nha Trang sẽ là điểm hẹn của hai sư đoàn này trước khi tiến về Nam, hướng Sài Gòn. Riêng tại vùng I, Tướng Trưởng bị tấn công một lúc từ cả hai hướng Bắc và Nam. Trên nguyên tắc, sau Tháng Mười, 1973, khi Hà Nội, cục R phát lệnh đánh trả và ông Thiệu ra chỉ thị “Tái tổ chức, phối trí” từ hạ tầng cơ sở hành chánh và quân đội… Lính nghĩa quân được đôn thành địa phương quân, lính địa phương tập trung lại thành tiểu đoàn chủ lực và các sư đoàn diện địa phải cơ động trong khu, vùng trách nhiệm.
Nhưng đấy chỉ là lý thuyết và hoàn toàn là lý thuyết. Người lính địa phương quân của Tiểu Khu Quảng Trị, Thừa Thiên không hề được chuẩn bị, trang bị để đương cự lại những sư đoàn chính quy Bắc Việt, thế nên khi Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, cùng với liên đoàn Biệt Động Quân vừa rút khỏi Quảng Trị, dân chúng ùa đi theo. Tỉnh trưởng Quảng Trị khuyên công chức cho gia đình di tản. Tất cả tràn về Huế, và Huế sau dấu ấn Mậu Thân 1968 và nỗi khiếp sợ từ 1972… Theo luồng cuồng nộ bi thảm này chạy về Nam, vượt đèo Hải Vân.
Ngày 25 Tháng Ba, sáu giờ, Tướng Trưởng ra lệnh bỏ Huế. Lính Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động, Sư Đoàn I đồng tập trung tại Vĩnh Lộc, nơi cửa biển Thuận An, Đông-Nam Huế. Đề đốc Chung Tấn Cang gởi một số vận tải hạm ra cửa Thuận An đón đoàn quân cùng đám dân chạy loạn. Nhưng muốn đến bờ biển, lên tàu lớn, đoàn người di tản phải qua phà Thuận An, và tại đây lại một lần tái lập cảnh tượng địa ngục nơi Sông Ba, Tuy Hòa mười ngày trước. Thật sự chỉ đúng một tuần. Điều đau đớn này xảy ra như một chuyện tất nhiên.
Trong tất cả các hình thái hành quân, rút lui là một loại chiến thuật khó khăn nhất, bởi lẽ tự nó vốn đã mang yếu tố thất bại, thua cuộc. Không thể có một giải đáp tốt cho vấn đề đã vốn xấu, thế nên không hề có được một cuộc rút lui thắng lợi. Nếu có được một cuộc rút lui tương đối thành công của quân sử thế giới thì đấy là lần di tản 350,000 lính đồng minh từ mõm Dunkerque qua Anh năm 1940. Nhưng Dunkerque là một cứ điểm phòng thủ với yếu tố thuận lợi do hệ thống sông, lạch chia cắt với đất liền và bin vây kín trước mặt. Cuộc triệt thoái với hơn nghìn tàu đủ loại của Anh và Pháp điều động, chỉ huy bởi những sĩ quan, tướng lĩnh kỳ tài của hai đạo quân có truyền thống và tổ chức cao. Hai quân đội kia còn có một thời hạn tương đối đủ (từ giữa Tháng Năm đến Tháng Tư Tháng Sáu, 1941) và một hậu phương nước Anh kiên định vững vàng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét