Nếu hai ông Donald Trump và Tập Cận Bình không thỏa hiệp được với nhau, cuộc chiến tranh mậu dịch giữa hai nước có thể làm kinh tế cả thế giới đi xuống trong năm tới. Cuộc suy thoái sẽ bắt đầu khi Trung Cộng không thể ngăn quả bom nợ bùng nổ.
Tổng số nợ trong kinh tế Trung Quốc đã lên gấp ba lần Tổng Sản Lượng Nội Địa (GDP). Số nợ của tư nhân chiếm 18.6% GDP vào năm 2008 đã tăng lên thành 46.5% vào giữa năm 2018. Những món nợ có cơ không thể trả được, nguy hiểm nhất, là do các chính quyền địa phương, đã lên tới 163% GDP vào năm 2017.
Nhưng một mối đe dọa lớn cho hệ thống tài chánh Trung Quốc là những món nợ vay của nước ngoài và vay bằng đô la Mỹ, phải trả lãi và vốn cũng bằng đô la Mỹ.
Kể từ năm 2008, khi kinh tế Mỹ và cả thế giới suy yếu, số trái khoán bằng đô la (dollar-denominated bonds) của các công ty Trung Quốc đã tăng lên gấp bốn lần, theo số liệu của Ngân Hàng Thanh Hóa Quốc Tế (BIS, Bank of International Settlenmants) ở Thụy Sĩ!
Trung Quốc không phải là quốc gia duy nhất đã tăng số nợ bằng đô la. Các nước đang lên khác cũng đang bị dè nặng dưới thứ trái phiếu này, khi họ vay đô la trên thị trường tài chánh quốc tế; số nợ đô la của Brazil, Mexico đã tăng gấp đôi, Nam Phi và Indonesia đã vay thêm gấp ba, Chile và Argentina gấp bốn lần như Trung Quốc.
Những nước trên đây đều đang lo khó trả nợ khi Ngân Hàng Trung Ương Mỹ (Fed) tăng lãi suất, và đồng đô la Mỹ tăng giá. Nếu đô la tiếp tục tăng giá, số đô la dùng để trả tiền lãi và vốn sẽ đắt hơn khi các nước này dùng tiền bản xứ mua đô la Mỹ. Khi lãi suất ở Mỹ tăng, muốn vay thêm đô la để trả nợ cũ sẽ phải chịu trả lãi nhiều hơn; đó là một mối lo khác.
Nhưng không phải chỉ có các nước mang nợ lo lắng, mà cả thế giới đều lo với họ. Vì hệ thống tài chánh và kinh tế thế giới ngày nay đã liên hệ chặt chẽ với nhau, rút dây là động rừng. Nền tài chánh thế giới, trong đó đô la Mỹ đóng vai trò chính, đã trở thành một đại dương, tài chánh mỗi quốc gia là một khu biển nhỏ, nhưng nước biển cùng lên hay cùng xuống với nhau. Khủng hoảng tài chánh và ngân hàng ở một nước sẽ gây ảnh hưởng trên các nước khác. Đáng lo nhất vẫn là kinh tế Trung Quốc; nếu họ chìm thì sẽ kéo cả thế giới xuống theo.
Trước năm 1975, hệ thống tài chánh thế giới còn được kiểm soát chặt chẽ; ít xảy ra những cuộc khủng hoảng ngân hàng. Sau đó, hệ thống ngân hàng các quốc gia được “cởi trói” và đồng tiền lưu chuyển giữa các nước cũng dễ dàng hơn. Hiện tượng này giúp kinh tế toàn cầu tăng trưởng, đặc biệt từ năm 1990, sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ ở Châu Âu; nhưng từ đó mỗi năm trung bình có 13 nước lâm vào khủng hoảng ngân hàng.
Khi hệ thống tài chánh được toàn cầu hóa, đồng tiền vốn chạy nhanh giữa các quốc gia; giữa các nước tiên tiến và các nước đang phát triển. Số tiền vay nợ “xuyên quốc gia” vào năm 1998 là $9,000 tỷ, năm 2008 đã tăng lên thành $35,000 tỷ; hiện nay đã xuống còn khoảng $30,000 tỷ. Chúng ta có thể thấy hiện tượng vay nợ xuyên quốc gia này rõ nhất từ năm 2000.
Trong thập niên đầu thiên niên kỷ, những nước bán nhiều, mua ít, “tiết kiệm” được nhiều nhất là những nước xuất cảng dầu lửa, cùng với Trung Quốc, một nước xuất cảng hàng giá rẻ nhờ trả lương công nhân rất thấp. Những đồng tiền thặng dư đó được chuyển qua những nước tiên tiến, cho vay hoặc đầu tư. Dòng tiền tệ này đã đẩy lãi suất ở Mỹ xuống thấp, và giá các loại tài sản lên, đặc biệt là trong thị trường địa ốc. Nước Mỹ hưởng lợi nhiều nhất vì được vay với lãi suất rất rẻ; nhưng chính sách kiểm soát dễ dãi đã đưa tới cuộc khủng hoảng địa ốc, sau đó lan qua hệ thống tài chánh làm kinh tế suy thoái trong những năm 2007, 2008.
Sau cuộc “đại suy thoái” này, dòng tiền tệ bắt đầu chảy ngược chiều, từ các nước tiên tiến qua các nước đang phát triển, như Trung Quốc; vì phản ứng từ các nước Âu Mỹ.
Để đối phó với cuộc khủng hoảng 2008, Ngân Hàng Trung Ương Mỹ và các nước Tây Âu đã giảm lãi suất. Họ lại bơm thêm tiền ra cho công chúng dùng để kích thích kinh tế, bằng cách mua trái phiếu quốc gia – nói cách khác là in tiền rồi cho chính phủ vay. Khi lãi suất ở Mỹ và Tây Âu xuống, giới đầu tư quốc tế, trong đó có những nước dư tiền, đưa tiền đi nơi khác tìm lợi suất cao hơn. Dòng đô la bắt đầu chạy qua những nước “đang lên.” Vì thế, những món nợ ở Trung Quốc, Chile và Argentina tăng nhanh như chúng ta đã thấy. Các xí nghiệp ở nhiều nước đang lên đi vay nợ, vay bằng đô la Mỹ, đã tăng lên gấp bốn lần từ năm 2009.
Từ năm 2015, khi thấy kinh tế Mỹ đã đủ vững, Ngân Hàng Trung Ương Mỹ bắt đầu tăng lãi suất, lật ngược chính sách lãi suất thấp trước đó. Đồng đô la Mỹ lên cao, tới nay đã tăng giá trị thêm 25%. Như trên đã giải thích, đô la lên giá khiến các nước vay nợ bằng đô la gặp khó khăn. Vay một đô la năm 2014 chẳng hạn, giờ muốn có một đô la trả nợ thì phải mua với giá cao hơn 25%! Nhiều nước như Thổ Nhĩ Kỳ, Argentina đã gặp nạn, và căn bệnh này rất dễ lan truyền qua các nước đang phát triển khác, trong đó có Trung Quốc. Trong 30 năm qua, kinh tế những nước gọi là đang phát triển đã tăng lên, từ tỷ lệ 36% năm 1989 nay lên tới 59% GDP của cả thế giới. Cho nên nếu các nước này “lâm nạn” thì những nước nghèo hơn hay giầu hơn cũng bị họa theo.
Tại Trung Quốc, quả bom nợ phồng lên cùng với trào lưu đô la chạy sang các nước mới phát triển. Năm 2009 tổng số nợ lớn bằng 175% GDP nay đã lên bằng 300% GDP. Riêng với những món nợ bằng đô la Mỹ; năm 2009 hầu như chưa xí nghiệp nào đi vay trong thị trường thế giới; nhưng đến nay số nợ đô la đã lên tới $450 tỷ, bằng nửa số tiền mà Trung Cộng dùng ngoại tệ dự trữ đem cho chính phủ Mỹ vay.
Vay nợ không phải là một vấn đề! Đối với các xí nghiệp hay với các quốc gia, đi vay bao nhiêu cũng được nếu số tiền vay được dùng vào việc đầu tư sinh lợi, suất lợi kiếm được cao hơn lãi suất phải trả. Lợi suất càng cao thì vay càng nhiều càng tốt. Vấn đề của Trung Cộng là hầu hết các món nợ đều dùng cho những dự án không sinh lời hoặc hoàn toàn thua lỗ.
Cộng Sản Trung Quốc biết như vậy, và Tập Cận Bình đã bắt đầu “cải tổ” từ khi nhậm chức năm 2012. Nhưng hai việc cải tổ rất khó khăn là làm sao hãm bớt không cho các doanh nghiệp nhà nước yếu kém vay nợ và cắt số nợ của chính quyền các địa phương. Cả hai kế hoạch đều bị luồn lách lảng tránh hoặc chống đối. Giữa lúc đó, cuộc chiến tranh mậu dịch do ông Donald Trump gây ra khiến Tập Cận Bình lại thêm mối lo mới: Ngành xuất cảng sẽ xuống, kéo theo những ngành khác. Để đối phó, muốn giữ cho kinh tế không xuống nhanh quá, Tập Cận Bình lại phải thả lỏng cho các xí nghiệp và chính quyền vay nợ thêm, miễn là vẫn còn giữ được công ăn việc làm để kinh tế tiếp tục tăng trưởng trên 6% một năm.
Nhưng muốn giữ mức tăng trưởng đó, phải nâng cao cả phía cung và phía cầu, mà điều này không dễ dàng. Trước đây, chính quyền Trung Quốc đã “kích cung” bằng cách xây dựng rất nhiều nhà máy, cao ốc, đường xe lửa, xa lộ, vân vân, bây giờ đã xây quá thừa, nhiều nơi bỏ trống không dùng tới. Muốn nâng cao phần cung bây giờ thì phải gia tăng năng suất với kỹ thuật tân tiến, và chuyển tài nguyên vào các lãnh vực có năng suất cao hơn. Nhưng cho tới nay, kế hoạch đó chưa thực hiện được. Tập Cận Bình vẫn phải thỏa hiệp, tiếp tục cho ngân hàng bơm tiền vô những xí nghiệp quốc doanh không sinh lợi.
Nhưng nếu Tập Cận Bình có thể “kích cung” theo hướng trên đây, nỗi khó khăn về phía cầu sẽ tăng lên. Việc nâng cao năng suất bằng cách bỏ bớt các doanh nghiệp nhà nước xưa nay chỉ ăn hại sẽ gây hậu quả trước mắt là công nhân trong các xí nghiệp đó sẽ mất việc. Một số lớn người tiêu thụ bắt buộc phải thắt lưng buộc bụng. Trong khi đó thì kế hoạch chuyển nền kinh tế từ xuất cảng sang tiêu thụ nội địa chưa đạt được kết quả nào đáng kể. Hơn nữa, vì kế hoạch kích thích tiêu thụ này mà số nợ của tư nhân đã tăng vọt lên, từ 18.6% GDP vào năm 2008 nay thành 46.5%, như đã nói trên đây. Tăng lợi tức của người tiêu thụ cũng là một biện pháp kích cầu tốt, nhưng từ năm 2016 đến nay tỷ lệ lợi tức của các gia đình so với Tổng Sản Lượng Nội Địa (GDP) đã giảm chứ không tăng.
Tập Cận Bình có thể cố giữ số hàng xuất cảng không cho rớt xuống nhanh quá, bằng cách hạ thấp giá đồng nguyên của Trung Quốc so với đô la Mỹ. Nhưng làm như vậy sẽ càng chọc giận Donald Trump, cuộc chiến tranh quan thuế sẽ tàn nhẫn hơn. Hơn nữa, khi đồng nguyên xuống giá so với tiền Mỹ, những món nợ vay bằng đô la của các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ trở thành nặng nề hơn.
Không ai cầu mong kinh tế Trung Quốc lâm nạn, vì tai họa sẽ lan truyền khắp thế giới, kể cả nước Mỹ. Năm 1989, kinh tế Trung Quốc chỉ bằng 4% của GDP của thế giới, bây giờ đã lên thành 19%. Nếu kinh tế Trung Quốc suy sụp thì những nước đang bán hàng cho họ gặp nguy, những ngân hàng đang cho họ vay tiền cũng lâm nạn. Hậu quả lan ra khiến hệ thống ngân hàng quốc tế cũng khó thoát nạn. Khi ngân hàng khắp nơi phải giảm bớt số tiền cho vay thì kinh tế toàn cầu sẽ xuống theo.
Hai ông Donald Trump và Tập Cận Bình sẽ được mọi người chung quanh nhắc nhở mối nguy chung này trong lần gặp gỡ sắp tới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét