
Việt Nam xuất khẩu 3,2 tấn gạo trong năm 1996-AFP
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á
Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.
Thưa quý thính giả, chúng ta lại bước vào cuối Tháng Tư khi nhiều người kỷ niệm
biến cố 30 Tháng Tư năm 1975 cho nên Nguyên Lam xin đặt lại biến cố đó vào
khung cảnh thời gian để yêu cầu chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa nói về hiện
tại. Là một viên chức kinh tế tài chính cao cấp của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
tại Sàigòn ở trong Nam, ông nghĩ sao về biến cố này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Có lẽ ta cần
nhìn vào hai trục không gian và thời gian lâu dài thì mới đánh giá cho đúng.
Ngược dòng thời gian, sau khi bị Pháp đô hộ từ năm 1883, khi Đệ nhị Thế chiến kết
thúc năm 1945với sự tan rã của bộ máy thực dân Pháp và sự thất trận của Nhật,
Việt Nam có lại nền độc lập lần đầu tiên với Chính phủ Trần Trọng Kim. Nhưng
vào giai đoạn đầy biến động ấy, chính phủ độc lập đầu tiên kể từ năm 1883 lại bị
lật đổ qua vụ Việt Minh cướp chính quyền vào Tháng Tám 1945. Sau đó, vào năm
1955, Việt Nam lại có nền độc lập trên hai nửa lãnh thổ, là Việt Nam Cộng Hòa ở
trong Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại miền Bắc. Nhưng 20 năm sau là biến cố
1975 mà nhiều người đang kỷ niệm. Nói về miền Nam thì nhìn từ lịch sử người ta
có một nền tự do non trẻ tồn tại được 21 năm trước sức ép của miền Bắc cộng sản
và cả khối Cộng Sản quốc tế.
Kinh tế thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa
Nguyên Lam: Thế hệ của Nguyên Lam
chưa thể biết hết những khúc mắc kinh tế vào thời kỳ đó. Là chuyên gia kinh tế,
xin ông đánh giá nền kinh tế của miền Nam trong giai đoạn 1955-1975, gồm Đệ Nhất
và Đệ Nhị Cộng Hòa. Cụ thể là thách thức và thành tựu 20 năm đó là những gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Vì thời lượng
có hạn, tôi cố trình bày ngắn gọn bài toán và các thành quả kinh tế của miền
Nam từ năm 1955 đến 1975. Người ta phải tái thiết và xây dựng lại một nền kinh
tế lần đầu tiên có độc lập ngay trong thời chiến, với hai đợt di cư và di tản
vào các năm 1954 và 1972 trên một nền tảng dân chủ còn phôi thai.
- Tôi xin bắt đầu với nền kinh tế
của Đệ nhất Cộng Hòa, từ sau 1954, với các nan đề mà nhiều người quên rồi. Thứ
nhất, phân nửa lãnh thổ trước kia là thuộc địa của Pháp, được khai thác cho nhu
cầu của Pháp, có chừng 15 triệu dân và bộ máy hành chánh do Pháp để lại, đột
nhiên nhận được ít ra hai triệu người di cư từ miền Bắc vào. Làm sao tổ chức lại
nền sản xuất và phân phối ấy? Đã vậy, vài năm sau là miền Nam lại bị chiến
tranh phá hoại và sinh hoạt kinh tế tất nhiên bị cản trở.
- Vậy mà miền Nam vẫn định cư và
khẩn hoang lãnh thổ để bảo đảm cuộc sống cho mọi người trong một nền kinh tế
đang ra khỏi hình thái tập trung của Pháp và hồi phục sau 10 năm chiến tranh, từ
1945 tới 1955. Nổi bật là kế hoạch Cải cách điền địa năm 1956 và sự xuất hiện của
nền kỹ nghệ nhẹ và dịch vụ, trong khi ít ai biết sự thật bi đát của việc cải
cách ruộng đất tại miền Bắc. Tôi cho rằng đời sau nên nhớ lại việc miền Nam đã
tư hữu hóa cho người dân có phương tiện canh tác riêng, trong tinh thần có làm
thì có hưởng chứ không bị bóc lột. Duy trì được tôn chỉ đó trong thời chiến là
khó.
Nguyên Lam: Bây giờ xin ông chuyển
qua bài toán và thành quả kinh tế của nền Đệ nhị Cộng Hoà từ 1967-1975. Người
ta cho là kế sách đầu tư từ thời Đệ nhất Cộng Hòa đã đặt nền móng cho sự phát
triển kinh tế thị trường. Qua nền Đệ nhị Cộng Hòa thì cũng là lúc chiến cuộc
gia tăng và Hoa Kỳ đổ quân vào ngày một đông kể từ 1965. Thưa ông, khi ấy bài
toán kinh tế của miền Nam là gì và có những thành tựu gì là đáng nhớ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Những nan đề
và giải pháp của miền Nam khi ấy là gì?
- Thứ nhất, việc an ninh bị đe dọa
gây vấn đề cho kinh tế vì phá hoại thì dễ, chứ đầu tư sản xuất và gieo trồng
cho một dân số cỡ 18 triệu người mới là khó. Vậy mà vào hoàn cảnh đó, miền Nam
vẫn cố gắng phát triển kinh tế thị trường và hữu sản hóa người dân. Thứ hai, một
thách đố mới là sự hiện diện của quân đội Mỹ, nếu có tạo thẻm cơ hội kinh tế
cho cư dân thành phố thì cũng gây nan đề xã hội và đe dọa khả năng ổn định kinh
tế và vật giá trên toàn quốc. Trong hoàn cảnh ấy, thành tựu đáng kể nhất của miền
Nam là đạo luật Người Cày Có Ruộng ban hành ngày 26 Tháng Ba năm 1970 và những
áp dụng của chương trình Lúa Thần Nông. Đấy là kế hoạch hữu sản hóa và cải tiến
nông nghiệp ngay thời chiến, trên một vùng lãnh thổ thường xuyên bị phá hoại. Sự
thật thì chỉ cần sáu tháng không giao tranh là Việt Nam đã có thể tự tức về
lương thực và một năm sau sẽ là một nước xuất cảng gạo đáng kể của Đông Nam Á.
Thách đố lớn cho kinh tế trước 1975
Nguyên Lam: Sau năm 1975, chính
là thành tựu về canh nông của miền Nam mới làm dân chúng so sánh và thất vọng với
việc hợp tác hóa nông nghiệp của chế độ mới. Thưa ông, phải chăng vì vậy mà hơn
10 năm sau Việt Nam mới tìm lại vị thế xuất cảng gạo kể từ 1987?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi cho rằng
lực đẩy ấy là kinh tế của miền Nam. Ngoài ra, miền Nam trước 1975 còn nhiều
thành tựu khác về sản xuất kỹ nghệ nhẹ và hàng tiêu thụ và Chính quyền còn muốn
giải tư một số công ty quốc doanh để phát triển tư doanh nữa. Trong khi ấy, ta
khó quên được tình hình chiến sự với vụ Mậu Thân 1968 và nhất là Mùa Hè Đỏ Lửa
năm 1972 khiến cả triệu người di tản từ miền Trung vào các thành phố ở trong
Nam. Việc cứu trợ, định cư và kiếm việc làm cho bà con là một thách đố rất lớn.
Nguyên Lam: Thưa ông, Hoa Kỳ có
đóng vai trò lớn với nền Đệ nhị Cộng Hòa ở trong Nam qua hai việc, là đổ quân
trực tiếp tham chiến tại Việt Nam kể từ năm 1965 cho đến 1973; thứ hai là viện trợ
kinh tế trong cả chục năm rồi sau cùng lại cắt cả viện trợ quân sự lẫn kinh tế
khiến Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ trước đà tấn công của Bắc Việt, lúc đó được Liên
Xô và Trung Cộng cố vấn và yểm trợ. Vào hoàn cảnh phức tạp đó, giới làm kinh tế
trong Nam phải đối phó và quản lý nền kinh tế như thế nào, và viện trợ Mỹ giúp
được gì và gây ra vấn đề gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Có lẽ ta phải
làm một chương trình riêng thì mới nói hết nhược điểm của viện trợ Mỹ như ta thấy
ngày nay tại nhiều nơi có chiến tranh. Về đại thể, viện trợ Mỹ cho miền Nam, chừng
6-700 trăm triệu đô la một năm, là để bù vào thiếu hụt sản xuất do chiến tranh
gây ra, chứ cả hai nền Cộng hoà đều ý thức nhu cầu tự túc để tự lập chẳng khác
gì Đài Loan hay Nam Hàn. Các chuyên gia kinh tế trong Nam đều cùng trình độ với
giới chuyên gia của hai xứ đó và thường xuyên cộng tác và học hỏi với nhau.
- Thứ hai, Hoa Kỳ là xứ dân chủ
và viện trợ của Hành pháp vẫn do Quốc Hội chấp thuận hàng năm và kiểm soát theo
luật lệ của Mỹ vì quyền lợi của nước Mỹ. Tương tự như trong lãnh vực quân sự,
khi tham gia thì Hoa Kỳ tổ chức lại quân đội của Việt Nam Cộng Hòa và cũng muốn
tổ chức lại hệ thống kinh tế miền Nam theo quy cách của họ. Đấy là bài toán thực
tế gây khó khăn cho giới quản lý kinh tế vì phải dung hợp với điều kiện của nước
cấp viện là Mỹ, giải quyết được nạn khan hiếm và lạm phát dễ xảy ra vào thời
chiến mà vẫn tôn trọng tinh thần dân chủ và quy luật thị trường.
Nguyên Lam: Chưa kể rằng cộng sản
càng tấn công thì càng đẩy kinh tế miền Nam tới chỗ nương tựa vào viện trợ mà
người dân thành phố lại không biết trong khi chính quyền phải lo cho binh lính,
công chức và nông dân ở mọi nơi. Thưa ông, có phải như vậy không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ngẫm lại thì
ngoài nhiều lý do khác, miền Nam và Hoa Kỳ không thể thắng được chính là vì
nguyên nhân kinh tế. Tôi xin thu hẹp vào chuyện lúa gạo như một thí dụ. Vì chiến
cuộc, miền Nam thiếu gạo và phải nhập khẩu và trông chờ vào viện trợ Mỹ. Nhưng
miền Nam cũng theo chế độ tự do kinh tế và dân chủ chính trị, nên không thể ban
bố tình trạng khẩn cấp để trưng thu lúa gạo hầu ưu tiên cung cấp cho các đơn vị
tác chiến ngoài tiền tuyến khi ấy đã lan rộng và các chiến binh đang thiếu gạo
chứ chẳng thiếu có súng đạn xăng nhớt. Nếu trưng thu như vậy thì ta hãy tượng
tượng ra phản ứng của báo chí và truyền thông!
- Nếu cưỡng bách công nhân bốc rỡ
gạo cũng là vi phạm quyền tự do đình công và gặp phản ứng chống đối chính đáng
của các nghiệp đoàn. Phải lo gạo cho lính, cho dân, cho thành phố, phải thu mua
tồn trữ và ổn định giá cả trong khi vẫn phát huy vai trò của tư nhân chứ không
thể quốc hữu hóa và lập ra chế độ khẩu phần và tem phiếu được!
Nền kinh tế sau 1975
Nguyên Lam: Bây giờ, Nguyên Lam
xin mời kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa nói về kinh tế Việt Nam sau 1975, nhìn từ
một khía cạnh rộng lớn hơn, bao trùm lên chính trị.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ngẫm lại thì
ta thấy ra ba giai đoạn của nền kinh tế thống nhất dưới chế độ cộng sản. Thứ nhất
là “xây dựng xã hội chủ nghĩa” với hàm ý cải tạo và xóa bỏ những gì không thuộc
chủ nghĩa xã hội, lại còn lồng vào 10 năm chiếm đóng Kampuchia khiến sản lượng
bị mất chừng 5% mỗi năm. Kết quả là khủng hoảng và lãnh đạo biết là sai, nhưng
thế nào là đúng thì chưa biết, hãy đọc các văn kiện của Đại hội 6 thì chúng ta
hiểu. Thứ hai là năm năm đổi mới có tính
tự phát để người dân bung ra làm ăn, từ dưới lên, là thời 1987-1991. Thứ
ba, khi Liên Xô tan rã năm 1991 thì lãnh đạo Việt Nam ngả theo Bắc Kinh, và đổi
mới từ trên xuống theo kiểu Trung Quốc, là nới lỏng kiếm soát kinh tế mà vẫn
tăng cường kiểm soát chính trị trong chế độ gọi là “trưng thu”. Kết cuộc thì
người dân có dễ thở hơn trước, nhưng đảng viên cán bộ mới làm giàu mạnh trên một
xứ gần trăm triệu dân và họ củng cố chế độ vì quyền lợi của họ.
Nguyên Lam: Nguyên Lam biết là
không thể trình bày hết ngần ấy vấn đề trong một chương trình có hạn, nên xin đề
nghị ông tổng kết qua vài nét chính.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau một thời
gian cộng sản cai trị dài gấp đôi cả hai nền Cộng Hòa ở trong Nam, là điều chưa
từng có trong cả thế kỷ, Việt Nam đã có thay đổi khả quan hơn trên cái trục thời
gian. Nhưng trên cái trục không gian là nếu so với các xứ khác thì Việt Nam vẫn
là nước nghèo và thua các lân bang cùng kích thước. Cụ thể là lợi tức bình quân
vẫn còn quá thấp và chưa ra khỏi trình độ làm gia công cho thiên hạ. Đấy là một
lãng phí oan uổng sau mấy chục năm giết nhau vì ý thức hệ sai lầm.
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á
Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân
tích kỳ này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét