Trong giai đoạn hậu Đệ Nhị Thế Chiến, tỉ lệ sinh nở gia tăng
mạnh trong nhiều năm, việc phá hủy các khu nhà cũ nát, lượng người nhập cư và
ngoại tỉnh đổ về Paris góp phần vào công cuộc tái thiết thành phố cũng dẫn đến
một vấn đề nan giải là quỹ nhà ở vốn đã hạn hẹp, xuống cấp lại càng trở nên
khan hiếm trầm trọng. Thậm chí hàng ngàn người ở Paris phải sống trong cảnh «
màn trời, chiếu đất ».
Năm 1949, linh mục Pierre thành lập Phong trào Emmaüs để
giúp đỡ người nghèo, đặc biệt là người vô gia cư. Năm 1954, Paris trải qua một
mùa đông lạnh giá khác thường, khắc nghiệt nhất kể từ Đệ Nhị Thế Chiến, nhiệt độ
ở Paris xuống dưới -15oC, nhiều con sông, ao hồ đóng băng, nhiều người vô gia
cư chết cóng ngoài trời.
Vào đêm 30/01, rạng sáng 01/02, một phụ nữ đã chết vì lạnh
trên đại lộ Sébastopol, Paris ít giờ sau khi bị đuổi khỏi nơi ở trọ. Sáng hôm
đó, một nhà báo đã gợi ý linh mục Pierre đưa lời kêu gọi về tình đoàn kết,
tương trợ. Lời kêu gọi của cha Pierre được phát trên sóng phát thanh
Radio-Luxembourg, mở đầu bằng câu ngắn gọn « Các bạn của tôi, xin hãy cứu giúp
… ». Theo cha Pierre, có hơn 2.000 người vô gia cư đang co ro ngoài đường vì
giá rét và đói khát.
« Lời kêu gọi của cha Pierre »
Xin hãy nghe tôi : Trong ba giờ, hai khu cứu trợ khẩn cấp đã
được dựng lên : một khu ở chân điện Panthéon, phố Sainte Geneviève, khu còn lại
ở Courbevoie. Nhưng cả hai đều đã quá tải. Cần phải dựng những khu cứu trợ như
vậy ở khắp nơi. Ngay vào tối hôm nay, tại mọi thành phố của nước Pháp, trong mọi
khu phố của Paris, cần phải treo các tấm biển dưới ánh đèn sáng, ở cửa vào những
nơi có chăn đắp, có trải rơm, có súp, nơi người ta đọc được cái tên : « Trung
tâm cứu trợ tình nghĩa », và những chữ đơn giản như sau : « Hỡi những người
đang chịu đựng khó khăn, cho dù bạn là ai, hãy vào đây, nằm ngủ, ăn uống và lấy
lại hy vọng. Ở đây, bạn được yêu thương ! »
Theo dự báo thời tiết, lạnh giá khắc nghiệt còn kéo dài cả
tháng. Vì mùa đông còn kéo dài, các khu cứu trợ còn phải được duy trì để cứu
giúp những người trong cảnh khốn cùng, cha Pierre kêu gọi người dân Pháp phát
huy lòng trắc ẩn, tình yêu thương, với hy vọng nỗi đau thương mang lại « tâm hồn
chung cho nước Pháp » :
« Mỗi người chúng ta đều có thể cứu giúp những người vô gia
cư. Vào tối nay, và muộn nhất là tới ngày mai, chúng tôi cần 5.000 cái chăn,
300 lều bạt cỡ lớn, 200 lò sưởi. Hãy khẩn trương mang tới khách sạn Rochester,
số 92, phố Boétie. Hãy cử người tình nguyện và xe tải tới thu nhận đồ, tối nay
vào lúc 23 giờ, trước khu lều ở đại lộ Sainte Geneviève. Nhờ có các bạn, không
một người nào, không một em nhỏ nào đêm nay còn phải ngủ vạ vật trên hè phố
Paris. Cám ơn các bạn ! »
"Lời kêu gọi của cha Pierre" đã nhận được sự ủng hộ
tích cực ngoài sức tưởng tượng của dân chúng, các dân biểu và giới truyền
thông. Nhiều người tình nguyện tham gia công tác cứu trợ, số tiền quyên góp thu
được cao khổng lồ với vô vàn vật dụng sinh hoạt cần thiết. Lời kêu gọi của cha
Pierre không chỉ đánh thức lòng nhân ái của cộng đồng, mà còn thúc đẩy giới
chính trị, lãnh đạo tìm kiếm giải pháp khắc phục nạn thiếu nhà ở nghiêm trọng tại
thủ đô Paris thời hậu Đệ Nhị Thế Chiến.
Ba tuần sau, Quốc Hội Pháp đã thông qua ngân sách 10 tỷ
franc để xây dựng 12.000 căn hộ cho người nghèo thuê với giá thấp. Hai năm sau
đó, vào năm 1956, Quốc Hội Pháp lại thông qua luật cấm đuổi người thuê ra khỏi
nhà trong mùa đông. Luật này đến nay vẫn còn hiệu lực. Sau này, trong suốt nhiều
năm, cha Pierre luôn được bình chọn là nhân vật được dân Pháp yêu quý nhất.
Trở lại với tình trạng nhà ở tại Paris, bên cạnh tình trạng
vô gia cư, nhiều hộ gia đình khác sống trong điều kiện tồi tệ. Theo thống kê,
160.000 người phải sống chung với cả gia đình trong một phòng trọ không có thiết
bị vệ sinh. Hơn 240.000 gia đình trong cả tỉnh Seine (nay là Paris) có nhu cầu
chuyển tới ở trong một căn hộ đảm bảo điều kiện sống hơn.
Ở phía đông và các khu ngoại ô cũ, người dân có cuộc sống
khiêm tốn hơn, giải quyết nhu cầu nhà ở cho cư dân là một thách thức lớn cho
chính quyền. Việc phá hủy các công sự ở ngoại vi Paris vào những năm 1920 khiến
khu vực quân sự « không được phép xây nhà ở » trở thành khu vực sống tạm bợ qua
ngày của những người có hoàn cảnh khó khăn.
Hàng ngàn gia đình, trong có chủ yếu là người nhập cư phải «
chui rúc » trong những « khu ổ chuột » ở ngoại ô, những chiếc xe tải đã han gỉ
hay trong các lều tạm. Họ trồng rau trong khoảng đất trống bao quanh để có cái
ăn qua ngày. Những nghĩa địa xe bus thành nơi chen chúc của những gia đình
nghèo khó, trong đó có rất nhiều trẻ em.
Đường lối « phi công nghiệp hóa Paris » dẫn đến việc đóng cửa
hầu hết các nhà máy, xí nghiệp nằm trong nội đô, thay vào đó là các xưởng nghề
thủ công và các cửa hàng buôn bán nhỏ. Các khu nhà xưởng bỏ trống, chưa được
tái quy hoạch tại các quận 19-20 ven ngoại ô cũng trở thành nơi ở của các cư
dân nghèo.
Từ năm 1952, kế hoạch đô thị hóa phát triển theo hai cách
khác nhau : hoặc cải tạo các tòa nhà cũ, hoặc xây dựng mới hoàn toàn các khu
nhà, làm biến đổi 100% bộ mặt nhiều khu phố. Tại khu phố lịch sử Marais, nhiều
khách sạn cổ trở thành kho hàng hay xưởng nghề thủ công, phần nhiều tòa nhà cũ
không được sửa sang chăm chút xuống cấp mạnh mẽ và đối mặt với nguy cơ bị phá dỡ.
Năm 1969, bộ trưởng Văn Hóa André Malraux muốn bảo tồn các
tòa nhà mà ông gọi là « di sản lịch sử của thủ đô ». Khu phố Marais được xếp hạng,
bảo tồn và « không thể bị phá dỡ ». Rất nhanh chóng, tầng lớp trung lưu và nhiều
nghệ sĩ có tiếng tăm đến sinh sống.
Ở khu trung tâm và mạn tây Paris, những người giàu có, nhất
là các công chức cao cấp và những người xuất thân từ tầng lớp quý tộc, tư sản vẫn
sống trong các khu phố đẹp đẽ, sang trọng do nam tước, tỉnh trưởng Paris
Haussmann quy hoạch dưới thời hoàng đế Napoléon III và trong giai đoạn quy hoạch
kế tiếp.
Vào giữa những năm 1960, tại khu phố Couronnes, 2.188 căn hộ
tồi tàn đã được phá dỡ để xây 1.754 căn hộ mới. Như vậy là có nhiều nhà mới, rộng
rãi, hiện đại hơn nhưng số căn hộ lại giảm, tình trạng này cũng xảy ra ở nhiều
khu vực, chẳng hạn ở Belleville vào năm 1975, khiến giới công nhân không thể tiếp
tục thuê nhà trong nội thành mà phải dịch chuyển dần ra các khu đô thị mới ở
ngoại ô.
Trong những năm 1930, hàng loạt tòa nhà giá rẻ xây bằng gạch
đỏ mọc lên bao quanh Paris ở khu vực vành đai, thì tới những năm 1960, HLM - tạm
dịch là « nhà cho thuê với giá thấp » - lại là một phép nhiệm màu để giải quyết
nhu cầu nhà ở của những người có thu nhập khiêm tốn.
Trong thập niên 60 -70, mỗi tòa nhà thường có một người, đa
phần là phụ nữ, trông coi tòa nhà, nhận thư từ bưu phẩm từ người đưa thư, giao
cho các hộ gia đình và phụ trách quét dọn vệ sinh. Họ cũng là người làm nhiệm vụ
nhắc nhở, đòi tiền thuê nhà của các hộ gia đình thanh toán tiền muộn. Chính vì
thế, họ vừa là người rất gần gũi với cư dân, nhưng cũng thường bị nhiều người
tránh né.
Tiện nghi sinh hoạt
Cùng với sự ra đời của các tòa nhà mới, tiện nghi bên trong
các căn hộ cũng đạt bước tiến mới và dẫn tới một cuộc cách mạng về thói quen
sinh hoạt của người dân Paris.
Các cửa hàng bán than và những người thợ khuân than củi nặng
nề trèo lên cầu thang bộ cao phục vụ các gia đình sưởi ấm vào mùa đông giá rét
dần biến mất. Lò sưởi đốt bằng than riêng trong từng hộ gia đình được thay thế
bằng hệ thống sưởi ấm chung cho cả khu nhà. Thang máy cũng được lắp đặt trong
các tòa nhà cao tầng.
Lavabo, nước nóng - lạnh, bồn tắm … là những thứ không thể
thiếu trong các ngôi nhà, căn hộ mới. Đã qua rồi cái thời người Paris mang dầu
gội, xà phòng đi tắm gội 1 lần/tuần ở nhà tắm công cộng. Người dân dần có thói
quen tắm rửa hàng ngày và tại nhà. Cảnh tượng nhà vệ sinh chung cho cả tầng ướt
bẩn nhớp nháp, nước chảy dọc hành lang, tong tỏng xuống cầu thang cũng nhanh
chóng rơi vào quên lãng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét