CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM PHẦN IIb
Ngô Đình Nhu (1910-1963)
Tây Phương Hóa là một sự kiện không từ chối được.
Trên đây chúng ta đã phải suy luận dông dài về trường hợp của
Ấn Độ. Bởi vì, công cuộc Phát Triển Dân Tộc bằng cách Tây Phương Hóa là một
công cuộc liên hệ đến sự sống còn của Dân Tộc. Và, mặc dầu đầy khích động,
nhưng sẽ đòi hỏi nhiều cố gắng liên tục trong nhiều năm, ở mọi người, và đòi hỏi
nhiều hy sinh nặng nề ở mọi tầng lớp nhân dân. Cố gắng liên tục sẽ làm cho dân
chúng mệt mỏi, hy sinh nặng nề sẽ gây phẫn nộ cho dân chúng. Trong hoàn cảnh đó
nếu người lãnh đạo không quả quyết tin vào công cuộc phát triển, nếu toàn dân
không tin rằng công cuộc phát triển là con đường sống duy nhất của Dân Tộc, thì
công cuộc phát triển không sao thực hiện được.
Vì vậy cho nên, một điều vô cùng thiết yếu là sự tin tưởng rằng,
công cuộc Phát Triển Dân Tộc chúng ta bằng cách Tây Phương Hóa là một sự kiện lịch
sử dĩ nhiên, không thể tránh được và ngoài công cuộc phát triển ấy ra, Dân Tộc
chúng ta không còn một lối thoát thứ hai. Một sự tin tưởng tuyệt đối như vậy chỉ
có thể có được khi nào các trường hợp đều được xem xét một cách không thiếu sót
để cho các nghi vấn đều được giải đáp.
Và khi các điều kiện trên đã thỏa mãn đầy đủ rồi, thì tất cả
mọi người Việt Nam chúng ta đều phải quả quyết tin rằng, chúng ta cần phải dốc
hết nỗ lực để thực hiện công cuộc Phát Triển Dân Tộc, bằng cách Tây Phương Hóa
xã hội chúng ta, một cách toàn diện mà không do dự.
Thật sự ra, công cuộc Tây Phương Hóa xã hội chúng ta đã tự
nó bắt đầu thực hiện từ ngày người Pháp bước chân lên đất này. Chúng ta chỉ cần
nhìn quanh chúng ta: Nhà ở cũng kiến trúc theo kỹ thuật và kiểu mẫu Tây phương,
giải trí cũng tổ chức theo Tây phương, thức ăn cũng nấu theo Tây phương. Phần lớn
các cử động trong đời sống của chúng ta đều rập khuôn theo Tây phương. Nhìn lại
chính con người của chúng ta, dù chúng ta ở thành thị hay thôn quê, chúng ta thấy
rằng tất cả con người chúng ta đều Tây Phương Hóa từ đầu tới chân: Tóc hớt theo
Tây phương, áo và quần cắt theo lối Tây phương, may bằng những cái máy do Tây
phương sáng chế, giây nịt và giày là sản phẩm của Tây phương. Đi ra, chúng ta
dùng xe đạp của Tây phương hay xe hơi của Tây phương. Vì vậy cho nên, những người
còn ngồi nhà mà nói là phải giữ lại phong tục Việt Nam để bảo vệ quốc hồn quốc
túy là những người tự dối mình.
Nếu đã như thế thì, trên kia chúng ta còn đặt thành vấn đề sự
cần thiết của công cuộc Tây Phương Hóa, có phải là một hành động thừa không ?
Thừa, mà cũng không thừa.
Thừa đối với những người vẫn chưa chịu nhận rằng, dầu họ
không có muốn Tây Phương Hóa và họ có chủ trương bảo cựu đến mức độ nào đi nữa,
thì chính con người của họ cũng đã Tây Phương Hóa đi rồi.
Không thừa, đối với chúng ta, là những người mong muốn thực
hiện được công cuộc Phát Triển Dân Tộc bằng cách Tây Phương Hóa toàn diện. Công
cuộc Tây Phương Hóa xã hội chúng ta mà ngày nay chúng ta mục kích những hiện tượng,
như trên đã kể, là một công cuộc Tây Phương Hóa bắt buộc, dẫn dắt đến tình trạng
tan rã của xã hội chúng ta. Xã hội chúng ta bị Tây Phương Hóa, chớ không phải tự
ý Tây Phương Hóa. Vì vậy mà cuộc Tây Phương Hóa đã được thực hiện một cách
không đường hướng, không mục đích và chỉ lên đến một mức độ thấp kém. Cũng vì vậy
mà chúng ta không chủ động được công cuộc Tây Phương Hóa đã qua của chúng ta,
và không có thể dẫn dắt nó vào một chiều hướng và đến một mức độ có ích cho
công cuộc Phát Triển Dân Tộc.
Trái lại công cuộc Tây Phương Hóa mà chúng ta phải thực hiện
cho Dân Tộc là một công cuộc Tây Phương Hóa tự ý muốn, đo đó, có đường hướng và
có mục đích. Chúng ta sẽ chủ động cuộc Tây Phương Hóa này và sẽ đưa nó đến một
mức độ đủ cao để xã hội chúng ta tìm được những tiêu chuẩn giá trị mới khả dĩ tạo
cho nó một trạng thái điều hòa mới.
Như thế nào là Tây Phương Hóa có đường hướng ?
Dưới đây chúng ta sẽ chứng minh rằng, trên phương diện Dân Tộc,
một công cuộc Tây Phương Hóa chỉ hữu hiệu khi nào được thực hiện toàn diện và đạt
đến mức độ đủ cao.
Như thế nào là Tây Phương Hóa toàn diện ?
Trong số các nhà lãnh đạo các quốc gia bị Tây phương tấn
công, những người có thái độ đóng cửa bảo vệ giá trị cũ, như ở Trung Hoa và ở
Việt Nam, cũng như những người có thái độ mở cửa để đón văn minh Tây phương như
ở Nga và ở Nhật, tất cả đều sớm nhận định rằng sở dĩ Tây phương thắng thế là,
trước tiên, nhờ ở kỹ thuật võ trang và kỹ thuật tổ chức.
Và giữa hai thái độ cực đoan như chúng ta đã phân tích trên
đây phần đông lại lựa chọn một thái độ dung hòa và khôn ngoan nhất. Thái độ nửa
chừng dựa trên lý luận sau đây:
Tây Phương Hóa có giới hạn.
Chúng ta chiến bại vì vũ khí của chúng ta kém về độ tinh xảo
và quân đội chúng ta thua về tổ chức. Vậy, để chống lại địch thủ một cách hiệu
quả và lâm thời thắng địch thủ, chúng ta chỉ cần học, một là kỹ thuật sử dụng
vũ khí tối tân, lúc đầu mua của chính những quốc gia Tây phương, sau học kỹ thuật
để chế tạo lấy, hai là kỹ thuật tổ chức quân đội theo Tây phương. Với hai khí
giới đó chúng ta có thể hy vọng thắng địch để bảo vệ được các tiêu chuẩn giá trị
truyền thống của xã hội của chúng ta. Như thế có nghĩa là chúng ta chỉ cần canh
tân quân trang và cải tổ quân đội là đủ, mọi cơ cấu khác trong xã hội vẫn giữ
nguyên vẹn. Nhưng, lịch sử của các quốc gia đã áp dụng thái độ đó trong hành động
lại chứng minh rằng, sự thật thì các sự kiện đã xảy ra không như những người
lãnh đạo của các quốc gia ấy dự định.
Sau khi đã quyết định canh tân quân trang và cải tổ quân đội
các nhà lãnh đạo nói trên một mặt gởi người xuất dương du học các nước Tây
phương để hấp thụ kỹ thuật mới, một mặt mướn người chuyên viên Tây phương đến tại
xứ để vừa huấn luyện người, vừa để xây cất các xưởng chế tạo vũ khí.
Vì sao người Tây phương lại đến nhận lãnh trách nhiệm chế tạo
các vũ khí đó và vì sao các cường quốc Tây phương nhận đào tạo các chuyên viên
ngoại quốc như vậy, mặc dù họ vẫn biết, cũng như mọi người đều biết, rằng làm
như vậy là họ sẽ trao cho địch thủ những khí giới đang bảo đảm ưu thế của họ ?
Có nhiều lý do khiến cho người Tây phương, cũng như những cá nhân của các quốc
gia khác, đã hành động như vậy. Trước hết là vì bị quyền lợi vật chất quyến rũ.
Thứ hai giữa các cường quốc trong nội bộ xã hội Tây phương cũng có nhiều mâu
thuẫn chính trị khiến cho mỗi cường quốc, trong một cuộc tranh giành ảnh hưởng
ác liệt, sẵn sàng tìm đồng minh cho mình ở những quốc gia ngoài xã hội Tây
phương. Và sau hết, trong thời kỳ đi chinh phục thế giới, kỹ thuật Tây phương
đã đạt đến một trình độ rất cao và tạo cho người Tây phương một sự hãnh diện và
tự tin mãnh liệt cho đến nỗi, nếu không phải vì lợi và vì ngoại giao, thì họ
cũng không ngần ngại mà hành động như họ đã làm. Dầu sao, như chúng ta sẽ thấy
sau này, những lý do trên là những yếu tố thuận lợi, mà toàn bộ tạo thành cơ hội
giúp cho các Dân Tộc ngoài xã hội Tây phương thực hiện công cuộc phát triển của
mình.
Tây Phương Hóa có giới hạn nhất định thất bại
Trở lại vấn đề canh
tân quân trang và cải tổ quân đội.
Sau giai đoạn thi
hành các biện pháp nói trên một thời gian, các nhà lãnh đạo thu lượm được một kết
quả mong muốn: Quân đội, võ trang bằng vũ khí của Tây phương và tổ chức theo lối
của họ, đã trở thành một lực lượng làm cho ngoại quốc phải kính nể. Nhưng, cũng
chẳng bao lâu sau đó, sang giai đoạn thứ hai, chính các nhà lãnh đạo đó lại nhận
thấy thêm rằng, nếu muốn duy trì cái lực lượng quí báu vừa mới tạo được thì việc
huấn luyện chuyên viên, chỉ giới hạn trong lãnh vực quân sự, lại không đủ. Đi
sâu vào một chút, lại tìm ra là tinh xảo của vũ khí Tây phương bắt nguồn từ các
phát minh của khoa học Tây phương, và, ngoại trừ mọi vấn đề tổ chức vật chất, sức
mạnh tinh thần của quân đội Tây phương lại do tư tưởng cá nhân của mỗi người
chiến binh và tư tưởng cá nhận lại do hoàn cảnh xã hội tạo ra.
Như vậy, muốn nuôi dưỡng
một lực lượng quân sự, đã được canh tân, lại phải đặt vấn đề hấp thụ học vấn
Tây phương và như thế, là phải canh tân nền giáo dục. Và muốn gieo cho người
chiến binh một sức mạnh tinh thần như của người chiến binh Tây phương lại phải
tạo cho họ hoàn cảnh xã hội tương tự, nghĩa là phải cải tạo xã hội. Mà cải tạo
xã hội thì phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn cũ. Như vậy thì, rốt cuộc lại,
phải bỏ giá trị tiêu chuẩn cũ, điều mà các nhà lãnh đạo đang nói đây không dự định
làm và cũng không muốn làm, vì sở dĩ các nhà lãnh đạo này chủ trương canh tân
quân đội là với mục đích bảo vệ các giá trị truyền thống của xã hội của họ.
Ngoài ra, sự canh tân
quân đội lại đương nhiên mang đến một hậu quả khác mà các nhà lãnh đạo cũng
không ngờ. Những người muốn học về tổ chức quân đội theo Tây phương, trước tiên
phải học ngôn ngữ Tây phương để đọc sách về kỹ thuật tổ chức quân đội của Tây
phương. Nhưng khi đọc được ngôn ngữ của Tây phương rồi, thì không làm thế nào cấm
họ đọc các sách khác của Tây phương trong những lĩnh vực khác: Chính trị, văn
hóa, hay xã hội. Do đó, và vì đã sẵn trong đầu sự cảm phục chính đáng đối với
Tây phương trong lĩnh vực quân sự, những người này tự nhiên nẩy ra sự cảm phục
Tây phương trong lĩnh vực xã hội và chính trị. Và họ sớm nhận thức rằng sức mạnh
của quân đội Tây phương cũng như tính cách tinh xảo của vũ khí Tây phương là những
kết quả đương nhiên, trong lĩnh vực quân sự của tổ chức xã hội và chính trị của
Tây phương. Như vậy, họ tin rằng không thể nào có được một quân đội hùng mạnh
theo mới mà không có một tổ chức xã hội và chính trị theo mới. Và chính những
người này sẽ biến thành những cái mầm của cuộc cách mạng chính trị và xã hội
sau này. Các sự kiện trên đây lại giải nghĩa cho chúng ta thấy vì sao mà ở một
nước Thổ Nhĩ Kỳ, và nhiều nước khác ở Cận Đông, chính quân đội lại hướng dẫn
các cuộc cách mạng chính trị và xã hội trong đầu Thế Kỷ XX.
Trở lại vấn đề canh
tân quân đội trên đây, sau khi đã canh tân quân đội, trong giai đoạn thứ nhất đến
giai đoạn thứ hai, các nhà lãnh đạo sẽ đứng vào một tình trạng tiến thoái lưỡng
nan. Nếu họ tiếp tục cuộc canh tân quân đội, thì bắt buộc họ phải đi đến chỗ cải
tạo xã hội. Đó là điều họ không thể làm được, bởi vì mục đích của họ khi canh
tân quân đội là để bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ.
Nhưng nếu họ ngưng lại
cuộc canh tân quân đội, thì việc bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ, cũng sẽ
không thực hiện được đối với sự tấn công của Tây phương. Hơn nữa, mộtcuộc duy
tân, một khi đã manh nha, tự nó sẽ tạo ra trong cơ thể của xã hội, bắt đầu duy
tân, những lực lượng càng ngày càng bành trướng để phát triển cuộc duy tân. Nếu
những lực lượng ấy được hướng dẫn sẽ đưa đến một cuộc duy tân có mục đích, nếu
không, cuộc duy tân sẽ hỗn loạn. Nếu các nhà lãnh đạo lại dùng bạo quyền, như
đã xảy ra ở Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ hồi đầu Thế Kỷ Hai Mươi, để hoặc là bãi bỏ
công cuộc theo mới hoặc là ngưng cuộc canh tân trong những giới hạn họ muốn, mặc
dù họ vẫn biết rằng hành động như vậy vẫn không cho phép họ bảo vệ các giá trị
tiêu chuẩn cũ, thì lực lượng cách mạng, lãnh đạo do những người ở trong quân đội
đã hấp thụ được, chẳng những kỹ thuật quân sự mới, mà lại thêm những tư tưởng
chính trị và xã hội mới, sẽ nổi lên lật đổ các nhà lãnh đạo này.
Công cuộc Tây Phương
Hóa, nhất định phải toàn diện
Tóm lại, nếu đóng cửa
không đón tiếp văn minh Tây phương, thì, vì kém kỹ thuật, sẽ bị Tây phương chiến
bại, và biến thành thuộc địa hay bán thuộc địa. Sau khi chiến bại rồi sẽ bị Tây
Phương Hóa nhưng công cuộc Tây Phương Hóa sẽ không được hướng dẫn và sẽ đưa đến
những kết quả thảm hại mà chúng ta biết.
Nếu muốn Tây Phương
Hóa có giới hạn để bảo vệ các giá trị cũ thì, một là công cuộc bảo vệ sẽ không
thực hiện được và quốc gia sẽ lâm vào tình trạng của các nước đóng cửa không tiếp
đón kỹ thuật Tây phương. Hai là sẽ tạo hoàn cảnh cho một cuộc cách mạng nội bộ
để đưa đến một cuộc Tây Phương Hóa toàn diện. Như vậy thì, đằng nào rồi những sự
kiện lịch sử cũng sẽ đưa đến một cuộc Tây Phương Hóa toàn diện. Nếu đã thế thì
thượng sách không phải là nên tự ý Tây Phương Hóa toàn diện hay sao ? Có như vậy
một mặt chúng ta sẽ có thể rút ngắn thời gian, một mặt chúng ta mới có thể chủ
động được công cuộc Tây Phương Hóa đế cho những chấn động, mà chắc chắn một
công cuộc như vậy sẽ gây ra cho xã hội ta, không có thể phá hoại xã hội ta, như
trong trường hợp một cuộc Tây Phương Hóa không hướng dẫn.
Tóm lại, một công cuộc Tây Phương Hóa chỉ hữu hiệu khi nào
chúng ta được tự ý thực hiện nó và thực hiện toàn diện, nghĩa là trên lĩnh vực
quân sự, chính trị, xã hội và theo đó là kinh tế và văn hóa.
Nếu ta tự ý Tây
Phương Hóa, thì chúng ta chủ động được công cuộc Tây Phương Hóa của chúng ta và
chúng ta sẽ bảo vệ được độc lập và xã hội, nhưng nhiều giá trị tiêu chuẩn phải
được đổi mới.
Nếu chúng ta không tự
ý Tây Phương Hóa thì rồi cũng bị Tây Phương Hóa. Nhưng cuộc Tây Phương Hóa sẽ
không được hướng dẫn, không đường lối và không mục đích. Sở dĩ sự kiện phải diễn
tiến theo cơ thức như đã phân tích trên đây là bởi vì một nền văn minh là một
toàn bộ quân bình, gồm có các tiêu chuẩn giá trị, có hiệu lực trong các lĩnh vực.
Nếu chúng ta thâu nhận
những thực hiện của Tây phương trong một lĩnh vực nào đó thì sớm hay muộn những
thực hiện đó cũng lần lần kéo đến và bắt buộc chúng ta thâu nhận những thực hiện
của Tây phương trong một lĩnh vực khác có liên hệ. Một mặt khác, nếu chúng ta
đã thâu nhận những kỹ thuật trong một lĩnh vực thì lần lần chúng ta sẽ thâu nhận
những nguyên tắc khoa học, đã làm căn bản cho sự phát minh ra các kỹ thuật đó.
Và nếu chúng ta thâu nhận các nguyên tắc khoa học, thì chúng ta lại đi đền chỗ
thâu nhận lối suy luận đã tạo ra các nguyên tắc khoa học. Nghĩa là cơ thức của
sự Tây Phương Hóa đi từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, và từ cương vị thấp đến
cương vị cao, từ lĩnh vực cụ thể đến lĩnh vực trừu tượng. Và sự diễn biến, tự
nhiên sẽ đến không có gì ngăn trở được. Bởi vì những yếu tố, mà toàn bộ hợp
thành một trạng thái thăng bằng, trong một nền văn minh, không thể tách rời ra
được. Sự sống, của từng yếu tố, tùy thuộc sự có mặt của các yếu tố khác. Nếu
chúng ta nhận yếu tố kỹ thuật quân sự, sớm muộn gì chúng ta cũng phải nhận yếu
tố khoa học, bởi vì, mỗi yếu tố, không thể sống một mình được, tất sẽ tự gây lại
trạng thái thăng bằng từ đó nó đã phát sinh, và trong đó nó có thể sống mạnh.
Trong sự liên lạc giữa
hai văn minh, một việc này lại mang đến một việc khác và tuần tự sẽ mang đến hết
toàn bộ văn minh mới.
Ví dụ, nếu chúng ta mặc
vải dệt ở các nhà máy Tây phương, thì chẳng bao lâu chúng ta lại nhập cảng những
nhà máy tương tự để dệt vải theo Tây phương tại xứ ta. Lần lần, chúng ta lại sản
xuất các nhà máy tại chỗ, và, chừng đó người nông dân của chúng ta lại bỏ đồng
ruộng để lên làm việc tại các nhà máy, và lúc bấy giờ, ngoài giờ làm việc họ lại
thích các lối giải trí của Tây phương, và lần lần đầu óc của họ cũng nghĩ theo
Tây phương, và cuối cùng, họ sẽ Tây Phương Hóa, từ vật chất lẫn tinh thần. Đó
là một định luật xã hội nghiêm khắc.
Như thế nào là Tây
Phương Hóa đến mức độ đủ cao.
Bài học của nước Nga
Trong lĩnh vực này lịch sử của nước Nga là một bài học vô
cùng quí báu.
Nước Nga ở phía Đông Âu Châu. Đối với Âu Châu, nước Nga là một
tiền đồn, mỗi khi các bộ lạc du mục Mông Cổ và Hung-nô ở các đồng hoang phía
Đông Bắc Á Châu xua quân đánh phá các Dân Tộc đã định cư trên hai đại lục Âu,
Á. Vị trí địa dư ấy, đã dẫn dắt đến các sự kiện lịch sử quan trọng sau đây.
Quan trọng đến nỗi, sau mấy ngàn năm biến cố khuynh đảo, nó vẫn còn chi phối nặng
nề các nguyên tắc ngoại giao giữa Nga và các cường quốc Âu Mỹ. Và đây là một ví
dụ, hết sức sáng tỏ, để chứng minh rằng, trong đời sống của một Dân Tộc, một thời
gian mấy Thế Kỷ hay mấy ngàn năm vẫn chưa thấm vào đâu. Và cuộc cách mạng Sô Viết
của nước Nga lại làm cho các sự kiện này trở thành một bằng cớ hết sức đích xác
để chứng minh rằng dĩ vãng của một Dân Tộc do hoàn cảnh địa dư và sự kiện lịch
sử tạo thành, không có thể san bằng được dù là bằng một cuộc cách mạng vô cùng
táo bạo, để xây dựng tương lai.
Ngay từ Thế Kỷ Thứ X, nước Nga đã có những sự liên lạc thường
xuyên và chặt chẽ với đế quốc La Mã, khi đế quốc này chỉ còn ảnh hưởng ở phía
Đông Địa Trung Hải và đặt kinh đô tại Constantinople, phía Bắc nước Hy Lạp, Gia
Tô Giáo cũng đã chia làm hai phái, Tây phái, Giáo chủ ở tại La Mã và Đông phái,
Giáo chủ ở tại Constantinople, chống báng nhau vì nhiều điểm về hành giáo và
nghi lễ. Nước Nga, vì liên lạc với Constantinople nên ngã theo Gia Tô Đông
phái, trong khi các nước Âu Châu đều được Tây phái La Mã truyền giáo. Sự kiện
này vừa là cái mầm chia rẽ giữa nước Nga và các nước Âu Châu, lại vừa là một di
sản tinh thần chung cho hai bên. Vì vậy mà trong lịch sử bang giao giữa Nga và
Âu Châu, tùy theo hoàn cảnh, có lúc thì sự kiện trên có hiệu lực như là một cái
mầm chia rẽ, có lúc lại có hiệu lực là một di sản tinh thần chung.
Từ Thế Kỷ Thứ X đến Thế Kỷ Thứ XIII, tính cách di sản tinh
thần chung lấn thế, nên sự mậu dịch rất thịnh hành giữa hai bên. Và nhiều cuộc
hôn nhân chính trị, một yếu tố vô cùng quan trọng trong thời quân chủ, đã xảy
ra giữa giòng Vua Nga và các giòng Vua Anh Pháp. Nếu tình trạng này kéo dài
thì, mặc dầu những điểm dị đồng giữa hai phái Gia Tô, di sản tinh thần chung có
lẽ đã thắt chặt các nước Âu Châu và nước Nga lại làm thành một khối, và lịch sử
đã có nhiều sự thay đổi lớn lao
Nhưng sau đó, vào Thế Kỷ Thứ XIII, các bộ lạc Mông Cổ, dưới
sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn và các vị Vua kế tiếp đã đưa quân đánh chiếm gần
hết Châu Á và một phần lớn Âu Châu, lập thành một đế quốc gồm các nước Đông Âu
ngày nay (Ba Lan, Hung Gia Lợi, Ru-ma-ni, Bulgarie) cả nước Nga, hết trung bộ
Châu Á, nội Mông Cổ, Tây Tạng và hết nước Tàu. Sự đế quốc Mông Cổ thống trị nước
Nga trên 150 năm, ngày nay, vẫn còn lưu lại nhiều di tích vật chất và nhất là một
sự kiện mà hậu quả lịch sử vô cùng lớn lao trong nhiều Thế Kỷ: Sự thống trị của
Mông Cổ đã cắt đứt hết các dây liên lạc nối liền nước Nga với khối văn minh Tây
phương đang phát triển.
Trong khi nước Nga bị xâm chiếm, và, nhờ vị trí tiền đồn của
nước Nga mà các nước khác ở Tây Âu đã thoát sự đô hộ của Mông Cổ, thì các nước
này, chẳng những không có lúc nào tìm cách cứu viện một đồng minh cùng chung một
di sản tinh thần, ngược lại, đã lợi dụng hoàn cảnh suy vong của Nga, để cắt xén
và chiếm nhiều phần đất thuộc lãnh thổ Nga.
Trong những lúc đó, chính là tính cách mầm chia rẽ đã thắng
tính cách di sản tinh thần chung của sự kiện mà chúng ta vừa nêu lên ở trên. Và
sau khi đế quốc Mông Cổ tan rã, nước Nga thâu hồi độc lập, thì từ đó sự bang
giao giữa Nga và các nước Tây Âu lúc nào cũng mang dấu vết cay đắng của thời kỳ
vừa qua. Do đó, lịch sử của cuộc bang giao giữa hai bên chỉ là một cuộc chiến đấu
không ngừng, kéo dài cho tới ngày nay, lúc thì Tây Âu chiến thắng, lúc thì Nga
chiến thắng, và chúng ta đang sống vào một thời kỳ mà Nga đang chiến thắng Tây
Âu.
Luôn luôn, Tây Âu nắm phần thắng những lúc nào mà kỹ thuật của
họ tiến bộ hơn của Nga. Nhưng yếu tố dân đông và đất rộng của Nga, lần nào,
cũng cứu Nga thoát khỏi một sự chiến bại hoàn toàn. Sau đó, các nhà lãnh đạo
Nga lại tìm cách thâu thập các kỹ thuật mới và khi hai bên đã ngang nhau trên
phương diện kỹ thuật thì yếu tố dân đông lại đưa phần thắng cho Nga. Thời gian
qua, kỹ thuật của Tây phương lại tiến bộ hơn trước và đồng thời mang thắng lợi
về cho Tây phương. Tấn tuồng lại cứ như thế mà tiếp tục diễn tiến, qua nhiều Thế
Kỷ, lúc bên này được bên kia thua, và lúc bên kia được bên này thua.
Thâu thập kỹ thuật.
Lúc đầu sự thâu nhập kỹ thuật Tây phương không khó khăn, bởi
vì sự cách biệt giữa hai nền kỹ thuật chỉ nằm trong một vài phát minh được xem
như là những bí mật quan trọng.
Kỹ thuật chưa tiến bộ nhiều, phương pháp nghiên cứu chưa có
qui củ, các phát minh còn thô sơ và rời rạc, thỉnh thoảng tình cờ mới tìm được
một phát minh mới. Và quốc gia nào nắm được một phát minh mới, tuy thô sơ nhưng
hiếm có đó, thì đã nắm được trong tay một sức mạnh vô địch làm nghiêng hẳn cán
cân lực lượng về phía mình.
Ở Trung Hoa, thời đại Nhà Đường, vào Thế Kỷ Thứ VII, sự tình
cờ đã đưa đến cho Lý Thế Dân một phát minh, ngày nay chúng ta xem là thông thường,
nhưng đã làm đảo lộn thế giới lúc bấy giờ: Yên ngựa có chân đứng. Trước đó, người
cưỡi ngựa chỉ ngồi trên ngựa, hai chân buông lỏng, vì vậy mà thăng bằng không vững
và kỵ binh chỉ là một phương tiện vận tải. Với phát minh mới, người ngồi trên
lưng ngựa vững như dính liền với thú và kỵ binh trở thành một khí giới tấn công
vô cùng sắc bén và dũng mãnh. Chỉ nhờ có hai sợi dây da thô sơ buộc vào yên ngựa,
nhưng lại có một tầm quan trọng rộng lớn không ngờ, mà Nhà Đường, đã chuyển thế
lâm nguy của Trung Hoa lúc bấy giờ, đang sống dưới sự đe dọa xâm lăng thường
xuyên của các Dân Tộc du mục Trung Á, thành một thế chiến thắng. Và Nhà Đường
chẳng những đã đánh bại các Dân Tộc xâm lăng, giữ vững độc lập cho Trung Hoa, lại
còn chinh phục ngược lại các lãnh thổ của họ, lập thành một đế quốc hùng cường
mà nền văn minh đã chói sáng khắp thế giới lúc bấy giờ trong hơn ba Thế Kỷ. Tất
cả những thành tựu đó chỉ nhờ cặp chân đứng yên ngựa.
Hơn thế nữa, cặp chân đứng yên ngựa, sau khi đã chấn hưng
Trung Hoa đến cực độ, lại còn mãnh lực xoay chiều luồng sóng chinh phục, lúc đó
đang chảy từ Tây sang Đông, thành một luồng sóng chinh phục từ Đông sang Tây.
Các Dân Tộc du mục Trung Á sau khi bị Trưng Hoa chinh phục và đồng thời thâu thập
được phát minh mới, nguyên nhân chính yếu của sức mạnh của Nhà Đường, đã quay lại
chinh phục các Dân Tộc láng giềng ở phía Tây và lân hồi làn sóng chinh phục lại
chuyển từ Đông sang Tây. Phát minh chân đứng yên ngựa cũng theo làn sóng đó mà
đi từ Đông sang Tây.
Cuối Thế Kỷ VII cặp chân đứng yên ngựa đã nhập vào xã hội Hồi
Giáo, và nhờ nó mà xã hội này đã chinh phục gần hết các phần đất bao quanh Địa
Trung Hải.
Ví dụ trên kia cho ta thấy vai trò vô cùng quan trọng của kỹ
thuật trong đời sống của các Dân Tộc. Lịch sử, trong thời kỳ khoa học chưa phôi
thai, còn nhiều trường hợp như vậy: Làm chủ được một phát minh kỹ thuật mới có
nghĩa là làm bá chủ một vùng.
Nhưng, cũng chính ký ức những trường hợp như vậy đã làm cho
những nhà lãnh đạo các quốc gia ngoài xã hội Tây phương, sau này, như chúng ta
đã thấy, lầm tưởng rằng, chỉ thâu nhận được kỹ thuật mới của Tây phương là đủ bảo
vệ nền văn minh cũ. Họ lầm bởi vì, sau khi khoa học đã phát triển sự nghiên cứu
đã có qui củ, sự tìm tòi đã có phương pháp, các phát minh không còn rời rạc nữa
và trở thành một toàn bộ di sản của một nền văn minh. Cho nên, như chúng ta đã
biết, nếu chúng ta thâu thập một kỹ thuật Tây phương thì chúng ta phải thâu thập
hết toàn bộ kỹ thuật Tây phương.
Trở lại vấn đề cuộc chiến đấu giữa Nga Sô và các cường quốc
Tây phương, chúng ta hiểu rõ vì sao, lúc đầu, sự thâu thập kỹ thuật Tây phương
không khó đối với Nga. Nhưng về sau, từ lúc khoa học đã bắt đầu phôi thai, các
phát minh kỹ thuật càng phức tạp hơn, và sự thâu thập càng khó khăn hơn.
Chúng ta thấy rõ sự tiến triển của cường độ khó khăn, khi
chúng ta ý thức rằng lúc đầu sự thâu thập một kỹ thuật mới có thể thực hiện được
một cách âm thầm, sau các chiến trận hoặc trong những cuộc trao đổi thương mãi.
Nhưng về sau, có lúc chính Đại Đế Pierre nước Nga đã phải đích thân hai lần cải
trang sang viếng các nước Âu Châu cùng với một đội binh chuyên viên để thâu thập
kỹ thuật Tây phương. Và sau đó đã bắt đầu kêu gọi đến kỹ thuật gia Tây phương bằng
những lợi lộc hấp dẫn.
Thâu thập khá năng sáng tạo kỹ thuật.
Sự thâu thập càng ngày càng khó khăn này là một lý do khả dĩ
giải thích một phần vì sao mà trong cuộc chiến đấu với Tây phương, Nga nhiều lần
bị kỹ thuật của Tây phương lấn áp. Lý do thứ hai dưới đây, có tính cách trừu tượng
hơn nhưng lại minh biện hơn.
Trong việc thâu thập kỹ thuật, Nga vẫn theo các nếp cũ, cho
nên vẫn tìm cách thâu thập các kỹ thuật, chớ không bao giờ tìm cách thâu thập
khả năng của lý trí, khả dĩ sáng tạo được kỹ thuật. Do đó, một khi Nga vừa chế
ngự được một mớ kỹ thuật, thì óc sáng tạo của Tây phương đã đẻ ra những kỹ thuật
mới, tinh xảo hơn. Thành ra lối thâu thập cũ nếu có thể áp dụng ở thời kỳ tiền
khoa học, thì vào thời kỳ khoa học chỉ vừa đủ để cho những người áp dụng chạy
theo đuôi Tây phương.
Nguyên do ở chỗ trước kia các phát minh kỹ thuật là một sự
tình cờ, thỉnh thoảng mới nẩy ra lúc thì nơi này lúc thì nơi khác. Nhưng từ
ngày xã hội Tây phương đã chế ngự được khoa học, phương pháp hóa sự nghiên cứu,
qui củ hóa sự tìm tòi thì các cuộc phát minh trở thành liên tục và biến thành một
thế độc quyền của những ai chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học. Vì vậy mà vấn
đề thâu thập kỹ thuật trước kia đơn sơ và ở vào trình độ bắt chước, sau khi
khoa học đã phát triển, phải được đưa lên đến trình độ chế ngự khả năng sáng tạo
khoa học. Phải như vậy, nếu những người thâu thập kỹ thuật Tây phương không muốn
lúc nào cũng chỉ chạy theo đuôi Tây phương và lúc nào cũng bị kỹ thuật Tây
phương chi phối.
Nghĩa là công cuộc Tây Phương Hóa chỉ hữu hiệu khi nào được
thực hiện đúng đến mức độ đủ cao.
Đó là bài học mà nước Nga, sau nhiều khế Kỷ kinh nghiệm và bằng
một giá rất đắt, đã thâu thập được. Và đó là một bài học vô giá cho các nước ở
trong tình trạng phải Tây Phương Hóa để bảo vệ sự sinh tồn của mình.
Chính nước Nga đã áp dụng ngay bài học đó trong cuộc cách mạng
1917. Và chung qui cuộc cách mạng 1917 của Nga chỉ là một cuộc Tây Phương Hóa
toàn diện và tự đặt cho mục đích phải đến mức độ đủ cao. Nghĩa là phải làm thế
nào khắc phục được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Cuộc Tây Phương
Hóa ở Nga đã toàn diện, nhưng cuộc Tây Phương Hóa của Nga đã đến mức độ đủ cao
chưa ?
Thời gian còn sớm quá nên chúng ta chưa có thể trả lời quả
quyết được Tuy nhiên, sự sáng tạo các hỏa tiễn liên lục địa, các vệ tinh và
hành tinh nhân tạo, các phi thuyền không gian, và nhiều phát minh khác trong mọi
lĩnh vực, tuy không kích thích dư luận đại chúng, nhưng vẫn không kém phần quan
trọng trên địa hạt khoa học, vượt hẳn khả năng sáng tạo của nhiều quốc gia Tây
phương, là những triệu chứng cho chúng ta đoán rằng Nga đã thành công. Tuy
nhiên, hãy còn sớm quá để chúng ta trả lời một cách dứt khoát. Ví dụ dưới đây lại
thêm phần rõ rệt về tính cách tối quan trọng của mức độ đủ cao của công cuộc
Tây Phương Hóa.
Trường hợp của Nhật
Cái hay phi thường của các nhà lãnh đạo Nhật thời Minh Trị
lúc bị Tây phương tấn công, là, mặc dầu không có cái kinh nghiệm chiến đấu
trong mấy Thế Kỷ chống Tây phương như Nga, lại nhìn thấy ngay sự cần thiết của
một công cuộc Tây Phương Hóa toàn diện. Nhưng có lẽ quan niệm về cao độ của
công cuộc Tây Phương Hóa không được rõ rệt lắm cho nên đến ngày nay, mặc dầu
công cuộc Tây Phương Hóa của Nhật đã thành tựu một cách không ai phủ nhận được,
sự chế ngự khả năng sáng tạo khoa học của Nhật chưa có dịp xuất lộ một cách rõ
rệt như của Nga. Trái lại một vài trường hợp lịch sử chứng minh rằng người Nhật
trong công cuộc Tây Phương Hóa toàn diện, chưa đạt đến mức độ đủ cao.
Lúc khởi đầu cuộc chiến tranh Thái Bình Dương giữa Nhật và Mỹ,
các phi công Mỹ đều khiếp sợ thành tích, tốc độ tầm hoạt động, sự dễ lái, hỏa lực
và sức chịu đựng của loại phi cơ khu trục của Nhật gọi là Zéro. Và các cường quốc
đều xem khu trục cơ của Nhật là một thực hiện bậc nhất trong thế giới của khoa
học hàng không Nhật. Nhưng sau hai năm chiến tranh, trong khi Mỹ lần lần cho xuất
hiện những loại phi cơ vượt hẳn loại phi cơ Zéro về mọi mặt, thì Tổng Tham Mưu
Nhật và kỹ thuật hàng không Nhật vẫn không sáng chế được một loại phi cơ nào
hơn loại Zéro được. Do đó sự làm chủ không phận lọt vào tay Mỹ và chiến thắng
cuối cùng về Mỹ như chúng ta đều biết.
Có thể nhiều yếu tố đã ảnh hưởng cùng một lúc để đưa đến sự
kiện trên. Nhưng một điều chắc chắn là trong số các yếu tố đó, có sự kiện là cuộc
Tây Phương Hóa của Nhật, mặc dù đã kết quả rất tốt đẹp, vẫn chưa đi đến chỗ chế
ngự một cách đầy đủ khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương.
Trong thời bình, mặc dầu những bí mật của quốc phòng vẫn được
mỗi quốc gia giữ gìn kỹ lưỡng, các tin tức khoa học vẫn được trao đổi giữa các
cường quốc tiến bộ, hoặc bằng lối trao đổi văn hóa thông thường, hoặc bằng lối
tình báo bí mật.
Do đó, sự chênh lệch giữa các nước về kỹ thuật không đến đỗi
to tát lắm. Nhưng trong thời kỳ chiến tranh, cố nhiên là những luồng giao hoán
đều gián đoạn và mỗi nước phải sống với cái vốn sáng tạo riêng của mình. Lúc bấy
giờ, nếu trình độ chế ngự khả năng sáng tạo khoa học của nước mình chưa đủ cao
thì kỹ thuật sẽ sút kém và ảnh hưởng nặng nề đến chiến cuộc.
Trường hợp trên đây của Nhật xác nhận hai điểm:
Tây Phương Hóa đến mức độ đủ cao.
1.- Tính cách thiết yếu của sự đạt đến mức độ đủ cao của
công cuộc Tây Phương Hóa.
2.- Đạt đến mức độ đủ cao của công cuộc Tây Phương Hóa là một
điều vô cùng khó khăn.
Nếu chúng ta không đạt đến mức độ đủ cao trong công cuộc Tây
Phương Hóa thì chính là mục đích của công cuộc Tây Phương Hóa chúng ta không đạt
được. Nghĩa là những kết quả của một công cuộc Tây Phương Hóa không đủ cao, sẽ
không giúp cho chúng ta bảo vệ được sự tồn tại của Dân Tộc, lý do chính, vì đó
mà chúng ta nhận định rằng công cuộc Tây Phương Hóa là cần thiết.
Nước Nhật, trong công cuộc Tây Phương Hóa của họ, đã đạt được
nhiều kết quả mà, chẳng những chúng ta và các nước cùng đang theo đuổi công cuộc
Tây Phương Hóa, đều thán phục, mà đến các nước Âu Mỹ cũng ngợi khen. Thế mà,
trong giờ phút quyết liệt của cuộc chiến đấu quyết định sự thắng bại của Dân Tộc,
thì kỹ thuật của họ vẫn chưa sánh kịp với kỹ thuật Tây phương. Xem thế đủ biết
rằng, việc chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học không phải là việc dễ làm. Nếu
chúng ta đã quan niệm rằng sự đạt đến mức độ đó là thiết yếu, thì việc đạt được
vẫn còn là một việc vô cùng khó khăn. Nay nếu chúng ta không đặt vấn đề ấy là cần
thiết, thì chắc chắn là không bao giờ chúng ta chế ngự được khả năng sáng tạo
khoa học của Tây phương. Và như thế là chúng ta đã đầu hàng trước khi ra trận.
Tất cả các điều trình bày trên kia lại càng xác nhận quan điểm
cho rằng, công cuộc Tây Phương Hóa toàn diện và việc đạt được đến mức độ đủ cao
là thiết yếu cho sự sống còn của Dân Tộc chúng ta. Và bởi vì một công cuộc Tây
Phương Hóa như vậy sẽ vô cùng khó khăn và đòi hỏi ở toàn dân những nỗ lực lớn
lao và những hy sinh nặng nề, thì nếu không phải chính chúng ta chủ trương và
lãnh đạo lấy, thì chắc chắn rằng không làm thế nào chúng ta có thể thực hiện được
công cuộc Tây Phương Hóa của chúng ta.
Độc lập để Tây Phương Hóa.
Sau khi đã phân tích như vậy rồi, chúng ta mới nhận thấy rằng
chủ trương của một số nhà cách mạng trước đây, đề nghị nên hợp tác với Pháp để
duy tân Việt Nam, là một chủ trương sai lầm. Sai lầm vì những người ấy đã không
phân tích vấn đề thấu đến tâm, nên tưởng rằng người ngoại quốc có thể trách nhiệm
một công cuộc Tây Phương Hóa như chúng ta đã trình bày ở trên.
Thật sự, trong thời kỳ người Pháp ở đây, chúng ta đã có một
cuộc Tây Phương Hóa.
Nhưng chính vì sự thống trị của người Pháp ở đây, nên cuộc
Tây Phương Hóa đó không làm sao được hướng dẫn theo một chiều hướng có ích lợi
cho đần tộc. Vì vậy cho nên, đã mang đến những hậu quả vô cùng tai hại, mà
chúng ta đều biết.
Như thế, điều kiện tiên quyết và thiết yếu để thực hiện cho
được công cuộc Tây Phương Hóa là phải độc lập. Có độc lập chúng ta mới chủ động
được vận mạng của chúng ta và lãnh đạo được công cuộc Tây Phương Hóa, mà sự
thành hay bại quyết định tương lai của chúng ta trong mấy Thế Kỷ sắp tới đây.
Theo đó thì, những nhà cách mạng đã chủ trương hợp tác với
Pháp đã đi sai đường lối. Chủ trương của họ chỉ có thể dung nạp với tác dụng của
một chiến thuật giai đoạn, để có thể đỡ khổ cho dân chúng. Chính chủ trương của
những nhà cách mạng chống Pháp một cách cực đoan là một chủ trương đúng. Vì vậy
mà như chúng ta đã biết, và như chúng ta sẽ phân tích chi tiết hơn sau này, các
nhà lãnh đạo Việt Nam theo đường lối cộng sản, đã hành động đúng hoàn cảnh khi
họ tự qui tụ dưới lá cờ cộng sản của Nga Sô trong giai đoạn chiến đấu giành độc
lập. Nhưng độc lập không phải là mục đích, mà chỉ là một điều kiện khẩn thiết,
như chúng ta vừa thấy trên đây, để có thể thực hiện được cuộc Phát Triển Dân Tộc
Và khi bước sang giai đoạn Phát Triển Dân Tộc, sự tự qui tụ dưới lá cờ cộng sản
còn có phải là một hành động lợi ích cho Dân Tộc không ? Sau này chúng ta sẽ trả
lời với chi tiết câu hỏi đã nêu lên. Bây giờ ta chỉ nên biết rằng mặc dầu sự tự
qui tụ dưới lá cờ cộng sản, đã đưa đến nhiều kết quả trong công cuộc chiến đấu
giành độc lập. Nhưng không phải vì những thành tích ấy mà có thể quả quyết rằng
nếu muốn đạt đến những thành tích khả quan tương tự trong giai đoạn phát triển,
chúng ta lại cần phải qui tụ dưới lá cờ cộng sản, như nhiều người đã nghĩ. Hoàn
cảnh đã thay đổi và vấn đề đã thay đổi, thì giải pháp không thể giữ như cũ được.
Tây Phương Hóa và bản chất Dân Tộc.
Trong phạm vi vấn đề Tây Phương Hóa, chúng ta còn phải trả lời
một câu hỏi. Nếu chúng ta phải thực hiện cuộc Tây Phương Hóa toàn diện và đến mức
độ đủ cao như trên đã nói thì liệu bản chất của Dân Tộc chúng ta có còn tồn tại
nữa không ? Và, nếu sau cuộc Tây Phương Hóa mà bản chất của Dân Tộc đã mất, thì
công cuộc Tây Phương Hóa có còn đáng để chúng ta theo đuổi để thực hiện với tất
cả sự gian lao và hy sinh của toàn dân chăng ? Và đã như vậy thì chúng ta thực
hiện công cuộc Tây Phương Hóa để bảo vệ cái gì ?
Trước hết chúng ta nên nhận xét các sự kiện đã xảy ra nếu
chúng ta không tự ý Tây Phương Hóa. Như chúng ta đã thấy, nếu chúng ta không tự
ý Tây Phương Hóa, thì trước hết chúng ta sẽ mất độc lập và sẽ mất chủ quyền định
đoạt vận mạng của Dân Tộc chúng ta. Sau đó, cuộc Tây Phương Hóa vẫn sẽ thực hiện
đối với chúng ta, nhưng không phải chúng ta lãnh đạo và hướng dẫn. Một cuộc Tây
Phương Hóa không được hướng dẫn sẽ mang đến sự tan rã của xã hội chúng ta.
Và nếu thật sự một cuộc Tây Phương Hóa tự ý và có lãnh đạo
không làm tan rã xã hội, lại có thể làm mất bản chất của Dân Tộc, thì chúng ta
có thề quả quyết rằng một cuộc Tây Phương Hóa bắt buộc và không hướng dẫn, làm
tan rã xã hội, chắc chắn sẽ làm mất mười lần hơn bản chất Dân Tộc của chúng ta.
Như vậy giữa hai thái độ tự ý Tây Phương Hóa và bắt buộc Tây
Phương Hóa, không còn có thể do dự nữa. Làm thế nào cũng phải lựa thái độ tự ý
Tây Phương Hóa, dù mà, vì cuộc Tây Phương Hóa đó mà bản tính Dân Tộc của chúng
ta có bị mất. Nếu thật sự có mất, ít ra chúng ta cũng còn bảo vệ được độc lập
chủ quyền, sự toàn vẹn của xã hội.
Nhưng chúng ta sẽ chứng minh dưới đây rằng, không có gì có
thể cho chúng ta quả quyết là công cuộc Tây Phương Hóa, như chúng ta chủ
trương, sẽ đưa đến sự mất bản chất Dân Tộc.
Trước hết chúng ta cần phải tìm hiểu một công cuộc Tây
Phương Hóa toàn diện đòi hỏi ở chúng ta những thực hiện gì.
Sau đó chúng ta cũng tìm hiểu một công cuộc Tây Phương Hóa đến
mức độ đủ cao đòi hỏi ở chúng ta những thực hiện gì ? Dựa trên đó chúng ta sẽ
có đủ tài liệu để trả lời câu hỏi nêu lên ở đầu chương này.
Cơ thức Tây Phương Hóa
Như đã trình bày trên đây, nguồn gốc của một cuộc Tây Phương
Hóa tự ý, trước tiên hết, là ý chí muốn thâu thập kỹ thuật tổ chức quân đội và
kỹ thuật võ trang quân đội.
Thường thường thì các nhà lãnh đạo, chủ trương thâu thập các
kỹ thuật trên, đều có ý định muốn ngừng lại sau giai đoạn đó. Nhưng mà như thế
là phủ nhận một định luật xã hội không làm sao tránh được: Khi hai nền văn minh
gặp nhau, liền tháo chốt cho một giòng sự kiện tuần tự diễn tiến theo một cơ thức
nhất định. Và với tất cả nỗ lực và phương tiện có thể vận dụng được, thì ngay ở
giai đoạn này, các nhà lãnh đạo, đã bắt đầu công cuộc Tây Phương Hóa cũng không
còn có thể ngưng lại được nữa. Công cuộc Tây Phương Hóa sẽ thực hiện với họ hay
là không có họ. Theo một cơ thức nhất định, sau lĩnh vực quân sự, làn sóng Tây
Phương Hóa sẽ làm tràn đến lĩnh vực cơ cấu chính trị, ít khi mà lĩnh vực cơ cấu
chính trị được Tây Phương Hóa một cách êm ái, trừ ra khi nào chính các nhà lãnh
đạo đã ý thức được rõ rệt vấn đề tự ý Tây Phương Hóa, như ở nước Nhật. Thường
thường thì sau nhiều cuộc chánh biến, các cơ cấu chính trị của chế độ cũ, nhường
chỗ cho những cơ cấu chính trị theo kiểu Tây phương. Ví dụ chế độ quân chủ
chuyên chế nhường chỗ cho một chế độ quân chủ lập hiến theo kiểu Anh hay một chế
độ cộng hòa theo kiểu Pháp, hoặc một chế độ Tổng Thống chế theo kiểu Mỹ. Bởi vì
lĩnh vực chính trị là một lĩnh vực chi phối tất cả đời sống của quốc gia, cho
nên sức kháng cự lại làn sóng Tây Phương Hóa thường mạnh nhất ở lĩnh vực này,
và công cuộc Tây Phương Hóa cũng đẫm máu nhiều nhất ở lĩnh vực này.
Nhưng sau đó, từ lĩnh vực cơ cấu chính trị sang lĩnh vực
giáo dục và sản xuất kinh tế thì công việc lại trở nên dễ dàng và như không còn
gặp trở lực nữa. Bắt đầu từ đây, công cuộc Tây Phương Hóa lại bước sang một
giai đoạn mới. Từ trước chủ trương Tây Phương Hóa chưa hoàn toàn thắng lợi và
phải nhiều cam go lắm mới lọt vào được nội thành của xã hội bị tấn công. Nhưng
từ đây, chủ trương đã chiếm được nội thành rồi, sang giai đoạn mới, công cuộc
Tây Phương Hóa toàn diện sẽ không gặp những trở lực do chủ trương thủ cựu dựng
lên nữa. Sự thành tựu hay không của công cuộc Tây Phương Hóa, từ lúc này, chỉ
còn tùy thuộc ở quan niệm một công cuộc Tây Phương Hóa đến mức hay không đến mức
của người lãnh đạo.
Tây Phương Hóa sâu và rộng, hay là thất bại và sụp đổ.
Giai đoạn mới này lại còn có một đặc điểm khác. Từ trước tới
đây chủ trương Tây Phương Hóa chỉ liên quan đến số người lãnh đạo. Chủ trương
Tây Phương Hóa cũng họ mà chống đối cũng họ. Nhưng từ đây trở đi, vân đề Tây
Phương Hóa, đã ngã ngũ ở trong giới của họ, mới bắt đầu lan ra đại chúng. Và cuối
cùng thì sự thành công hay thất bại của công cuộc Tây Phương Hóa lại ở chỗ sự
Tây Phương Hóa có thật sự lan rộng và ăn sâu đến đại chúng không ? Nếu sự Tây
Phương Hóa có lan rộng và ăn sâu đến đại chúng thì, trong một thời giai ngắn
hay dài, tùy theo những biện pháp áp dụng để thực hiện công cuộc Tây Phương
Hóa, sự Tây Phương Hóa sẽ ăn rễ ở quần chúng. Và ngược lại những sinh lực phát
sinh từ quần chúng đã bắt đầu Tây Phương Hóa, lại hợp thành một hậu thuẫn vừa củng
cố vừa thúc đẩy công cuộc Tây Phương Hóa.
Trái lại, nếu sự Tây Phương Hóa không lan rộng và ăn sâu đến
đại chúng thì, trong một thời gian ngắn, quần chúng sẽ ly khai với nhóm người
lãnh đạo, và xã hội sẽ rơi vào một tình trạng phân ly rất là nguy hiểm cho sự
tiến bộ của Cộng Đồng. Một bên, một thiểu số Tây Phương Hóa, một bên, khối đại
đa số vẫn sống theo các giá trị tiêu chuẩn cũ. Sự cách biệt sẽ rất trầm trọng
giữa hai bên, và công việc lãnh đạo không thể thi hành được, giữa hai khối người
không sử dụng cùng một lối suy tưởng và không cùng tôn trọng những giá trị tiêu
chuẩn chung. Trong trường hợp đó, sự nắm chính quyền của nhóm người, đã ly khai
với đại chúng, là một hiện trạng bất thường chỉ duy trì được bằng những biện
pháp cảnh sát cứng rắn. Tình thế đã chín mùi cho một cuộc cách mạng. Cách mạng
sẽ bùng nổ, khi nào khối quần chúng được một lãnh tụ qui tụ bằng uy tín cá
nhân, hay được một đảng phái qui tụ bằng một đường lối, hay nữa, khi nào có một
cuộc ngoại xâm. Xem thế chúng ta nhận thấy rõ tất cả các nguy hại nếu công cuộc
Tây Phương Hóa thất bại trong giai đoạn này và đồng thời cũng ý thức tính cách
thiết yếu của một sự thành công.
Tây Phương Hóa nửa chừng.
Bây giờ chúng ta trở lại các giai đoạn tiến triển của công
cuộc Tây Phương Hóa. Những công cuộc Tây Phương Hóa, phân nửa thất bại, của các
quốc gia ở Cận Đông giúp cho chúng ta một bản kê khai, khá đầy đủ, về sự tiến
triển của công cuộc Tây Phương Hóa trong từng giai đoạn. Nhờ đó chúng ta được
biết chắc chắn các sự kiện dưới đây.
Từ lúc chủ trương Tây Phương Hóa đã lọt vào thành nội cơ cấu
chính trị của một quốc gia rồi, thì từ đó sự lan tràn sang lĩnh vực giáo dục và
kinh tế không gặp khó khăn nữa.
Từ hai lĩnh vực này, công cuộc Tây Phương Hóa mới bắt đầu ăn
sâu và lan rộng vào đại chúng. Ở nhiều quốc gia Cận Đông ý chí Tây Phương Hóa đến
mức này là mãn hạn, vì sự kém khả năng huy động quần chúng của chính quyền
Trung Ương.
Trong trường hợp đó, công cuộc Tây Phương Hóa sẽ bắt đầu thất
bại và sẽ mang đến những hậu quả không tốt, như chúng ta đã thấy trên kia. Cũng
nhờ ở những sự thất bại, nhận thấy ở trên, mà chúng ta được biết rằng trong các
lĩnh vực của đời sống quốc gia, thì lĩnh vực đời sống thông thường, mà ngày nay
chúng ta quen gọi là lĩnh vực xã hội và lĩnh vực văn hóa, là hai lĩnh vực có sức
kháng cự nhiều nhất đối với sự Tây Phương Hóa, sau lĩnh vực tín ngưỡng mà chúng
ta sẽ bàn đến, một cách riêng biệt, sau này.
Sở dĩ như vậy, là vì hai lý do. Trước hết sự Tây Phương Hóa
càng đi sâu vào những lĩnh vực liên quan đến số đông người, sức kháng cự càng mạnh,
bắt nguồn ở sức thụ động của quần chúng. Lý do thứ hai là, sức kháng cự càng mạnh
khi đụng đến các lĩnh vực liên quan đến những di sản tinh thần của Dân Tộc. Nếu
hai lý do trên lại có cơ hội gặp nhau ở một lĩnh vực thì sức kháng cự lại còn
mãnh liệt hơn nữa: Ví dụ như lĩnh vực tín ngưỡng và tôn giáo.
Cho đến ngày nay, chưa có một cuộc Tây Phương Hóa nào, kể cả
hai cuộc Tây Phương Hóa thành công nhất của Nga Sô và của Nhật, đã vượt qua được
lĩnh vực tôn giáo. Sự kiện này giải thích vì sao mà thế giới hiện nay, mặc dầu ở
dưới sự chi phối hoàn toàn của kỹ thuật Tây phương, vẫn chia ra làm nhiều khu vực
văn hóa và tôn giáo rõ rệt.
(Tiếp Phần II c)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét