Lâu nay anh em DLV vẫn hay lý luận là nhiều nước dân chủ nhưng vẫn nghèo. Các trường hợp hay được dùng làm ví dụ là Philippiness, Ấn Độ, Nam Mỹ và châu Phi.
Mình đã viết 1 số stt phân tích tổng quát lý do các nước đó nghèo bản chất là do dân chủ giả hiệu. Đã có stt viết riêng về Ấn Độ để phân tích lý do dẫn đến sự chậm tiến. 1 stt phân tích về Zimbabwe là 1 ví dụ điển hình về nền dân chủ ở châu Phi mà vẫn nghèo.
1 stt viết riêng về Venezuela để thấy nước này cũng có cái vỏ dân chủ nhưng vẫn siêu lạm phát không kém gì Zimbabwe. Nhưng Venezuela vốn không thể làm đại diện cho Nam Mỹ, vì họ là quốc gia dầu mỏ. Vì thế, nên stt này phân tích tổng quát về nền dân chủ ở Nam Mỹ và lý do tại sao họ nghèo.
1 stt viết riêng về Venezuela để thấy nước này cũng có cái vỏ dân chủ nhưng vẫn siêu lạm phát không kém gì Zimbabwe. Nhưng Venezuela vốn không thể làm đại diện cho Nam Mỹ, vì họ là quốc gia dầu mỏ. Vì thế, nên stt này phân tích tổng quát về nền dân chủ ở Nam Mỹ và lý do tại sao họ nghèo.
Về chủ nghĩa dân túy này, người Việt mới TBCN nên đọc, vì nó rất gần gũi với VN. Đây sẽ là tấm gương cho VN nếu dân chủ đến ngay và luôn. Bản chất nó là dân chủ giả cầy, hay là độc tài của đám đông, không quan tâm đến quyền lợi cá nhân.
Cải cách ruộng đất chính là 1 giải pháp dân túy kinh điển ở các nước nông nghiệp mới thoát khỏi chế độ thực dân.
Nguồn: Kỷ nguyên hỗn loạn – Alan Greenspan (Cựu chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ – FED)
***
Theo nhà nghiên cứu lịch sử kinh tế nổi tiếng Angus Maddison thì, vào đầu thế kỷ 20, GDP bình quân đầu người của Argentina lớn hơn của Đức và gần bằng ¾ của Mỹ. Nhưng đến cuối thế kỷ 20, GDP bình quân đầu người của Argentina đã giảm xuống chỉ còn chưa đến một nửa của Đức và Mỹ. Trong thế kỷ 20, GDP đầu người của Mexico giảm từ 1/3 xuống ¼ của Mỹ . Lực kéo của nước láng giềng phương bắc cũng không đủ để ngăn chặn sự suy giảm. Trong thế kỷ 20, mức sống của Mỹ, Tây Âu và Châu Á tăng nhanh hơn so với Mỹ Latinh. Chỉ có Châu Phi và Đông Âu là thấp tương tự Mỹ Latinh.
Theo định nghĩa trong từ điển, “chủ nghĩa dân túy” là triết lý chính trị ủng hộ quyền lợi và quyền lực của nhân dân; đối với tầng lớp đặc quyền, đặc lợi. Tôi coi chủ nghĩa dân túy kinh tế là sự phản ứng của dân nghèo đối với một xã hội suy đồi, họ coi tầng lớp giàu có là kẻ áp bức. Theo chủ nghĩa dân túy kinh tế, chính phủ phải đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, ít chú ý đến các quyền cá nhân hay thực tế kinh tế là tài sản quốc gia đã được phát triển hoặc duy trì như thế nào. Nói cách khác, các hậu quả kinh tế tai hại của chính sách đã được bỏ qua một cách vô tình hay hữu ý. Chủ nghĩa dân túy thể hiện rõ trong các nền kinh tế bất bình đẳng lớn về thu nhập. Sự bất bình đẳng trong các nền kinh tế Mỹ Latinh thuộc diện cao nhất thế giới, cao hơn rất nhiều so với ở bất kỳ nước công nghiệp nào, và cao hơn bất kỳ nền kinh tế Đông Á nào.
Nguồn gốc của sự bất bình đẳng ở Mỹ Latinh là chủ nghĩa thực dân châu Âu đã bóc lột nô lệ và thổ dân từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Theo Ngân hàng Thế giới, tàn tích của nó là sự bất bình đẳng lớn về thu nhập giữa các chủng tộc. Hậu quả là Mỹ Latinh đã trở thành mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa dân túy kinh tế phát triển trong thế kỷ 20. Sự nghèo đói cùng cực tồn tại song song với sự giàu sang kinh tế. Tầng lớp giàu có luôn luôn bị lên án là đã sử dụng chính quyền để làm đầy túi tiền của mình.
Cho đến nay Mỹ vẫn bị đổ oan là nguyên nhân chính của sự nghèo đói kinh tế ở phương Nam. Trong nhiều thập niên, các nhà chính trị Mỹ Latinh đã la lối chống lại chủ nghĩa tư bản Mỹ và “chủ nghĩa đế quốc Mỹ”. Người Mỹ Latinh đặc biệt căm thù một thế kỷ thống trị về kinh tế và quân sự của Mỹ và việc Mỹ sử dụng “ ngoại giao pháo hạm ” để khẳng định các quyền sở hữu của Mỹ. Năm 1903, Tổng thống Theodore Roosevelt đã đi một bước xa hơn là xúi giục một cuộc nổi dậy để tách Panama khỏi Colombia sau khi Colombia từ chối không cho Mỹ xây dựng kênh đào Panama. Việc Pancho Villa trở thành một người anh hùng đối với người dân Mexico không có gì là lạ. Villa đã khủng bố các khu dân cư của Mỹ ở vùng biên giới và một cuộc đột kích quân sự dài ngày của Mỹ vào Mexico năm 1916, dưới sự chỉ huy của tướng John Pershing, đã thất bại không bắt được ông ta.
Sự phản ứng của Mỹ Latinh ở bình diện lớn hơn được thể hiện qua thực tế là thái độ chống Mỹ đầy thách thức của Lazaro Cardenas đã biến ông thành vị tổng thống Mexico được ngưỡng mộ nhất trong thế kỷ 20. Năm 1938, ông đã quốc hữu hóa tất cả tài sản dầu lửa, chủ yếu là của các công ty Standard Oil of New Jersey và Royal Dutch Shell. Hành động của ông để lại hậu quả lâu dài cho Mexico [72] . Song Cardenas vẫn được ghi nhớ như một vị anh hùng. Chỉ riêng tên tuổi của ông cũng đã giúp con ông là Cuauhtémoc suýt trúng cử Tổng thống Mexico năm 1988.
Từ cuối Thế chiến thứ hai, trước nữa là từ khi ra đời Chính sách Láng giềng Tốt của Franklin Roosevelt, chính sách đối ngoại của Mỹ đã thể hiện nỗ lực cải thiện hình ảnh tiêu cực của mình. Tôi cho rằng các nhà phân tích khách quan có thể đánh giá rằng đầu tư của Mỹ sau chiến tranh là đóng góp cho sự phồn vinh của Mỹ Latinh. Nhưng lịch sử vẫn còn hằn sâu trong khu vực. Niềm tin truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và nền văn hóa của một xã hội thay đổi rất chậm. Theo tôi biết, nhiều người Mỹ Latinh trong thế kỷ 21 vẫn tiếp tục bất bình với Mỹ. Đặc biệt, Hugo Chavez của Venezuela đã ra sức khơi dậy tình cảm chống Mỹ.
Chủ nghĩa dân túy kinh tế hướng vào cải cách, không hướng vào cách mạng. Những người theo chủ nghĩa dân túy kinh tế biết rõ các yêu cầu cần phải giải quyết, nhưng giải pháp thì lại mập mờ. Không giống với chủ nghĩa tư bản hoặc chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa dân túy kinh tế không có sự phân tích chính thống về các điều kiện cần thiết để tạo nên của cải và nâng cao đời sống. Nó là một tiếng kêu đau đớn hơn là một nguồn trí tuệ. Các nhà lãnh đạo dân túy hứa hẹn sẽ giải quyết bất công. Phân phối lại ruộng đất và truy bức tầng lớp trên thối nát là đơn thuốc bách bệnh thông dụng. Họ hứa hẹn sẽ đem lại ruộng đất, nhà cửa và lương thực cho mọi người. “Công lý” là một ham muốn và có thể được phân phối lại.
Chủ nghĩa dân túy kinh tế dưới mọi hình thức là đối lập với chủ nghĩa tư bản thị trường tự do. Nhưng quan điểm này sai lầm về cơ bản, và nó dựa trên nhận thức sai về chủ nghĩa tư bản. Tôi và nhiều người khác, ở trong cũng như ở ngoài khu vực, cho rằng các nhà dân túy kinh tế có cơ hội tốt hơn để đạt được mục tiêu của mình thông qua chủ nghĩa tư bản. Mở rộng cửa cho thị trường và tăng cường sở hữu tư nhân đã đóng một vai trò thiết yếu ở những vùng đất phát đạt và có đời sống cao.
Việc chủ nghĩa dân túy không hề suy yếu dù bị thất bại liên tiếp là một bằng chứng rõ nhất cho thấy chủ nghĩa này chủ yếu là một phản ứng tình cảm, không có cơ sở lý tưởng. Brazil, Argentina, Chile và Peru đã từng chịu nhiều thất bại trong chính sách dân túy kể từ cuộc Thế chiến thứ hai. Song các thế hệ lãnh đạo mới dường như không rút ra được bài học lịch sử, vẫn tiếp tục áp dụng các giải pháp đơn thuần của chủ nghĩa dân túy. Có thể nói, việc làm đó đã làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn.
Tôi lấy làm tiếc rằng các phong trào dân túy đã bất chấp các thất bại kinh tế trước đây trong cuộc đấu tranh của họ để xác định rõ một giải pháp cho nỗi đau khổ hiện nay của mình. Nhưng tôi không ngạc nhiên về thái độ bất chấp đó hay việc họ đã bác bỏ chủ nghĩa tư bản thị trường tự do. Chủ nghĩa tư bản thị trường là một khái niệm trừu tượng rộng lớn, không phải lúc nào cũng phù hợp với các quan điểm không có hướng dẫn về cách thức hoạt động của các nền kinh tế. Tôi cho rằng thị trường được chấp nhận là vì lịch sử tạo ra của cải lâu đời của nó. Tuy nhiên, người ta thường phàn nàn với tôi rằng: “Không biết nó hoạt động ra sao và nó luôn luôn tỏ ra đang lảo đảo bên bờ vực hỗn loạn”. Đó không phải là một cảm giác hoàn toàn phi logic. Nhưng như đã được giảng dạy trong Kinh tế học 101, khi một nền kinh tế thị trường thỉnh thoảng đi chệch khỏi một con đường có vẻ là ổn định thì sẽ có các phản ứng cạnh tranh để điều chỉnh lại. Vì có hàng triệu giao dịch tham gia vào việc điều chỉnh này nên rất khó nhận ra. Các giải thích trừu tượng trong lớp học chỉ gợi mở về các động lực, ví dụ động lực giúp cho nền kinh tế Mỹ ổn định và phát triển sau cuộc tấn công ngày 11/9.
Chủ nghĩa dân túy kinh tế hình dung ra một thế giới ít phức tạp, trong đó một khung khái niệm bị coi là để đánh lạc hướng khỏi các nhu cầu cấp bách, rõ ràng. Các nguyên tắc của chủ nghĩa dân túy kinh tế rất đơn giản. Nếu có thất nghiệp thì chính phủ phải tạo việc làm cho người thất nghiệp. Nếu tiền tệ khan hiếm và vì vậy mà lãi suất lên cao thì chính phủ phải kiềm chế lãi suất hoặc phát hành thêm tiền. Nếu hàng hóa nhập khẩu đe dọa việc làm thì ngừng nhập khẩu. Tại sao việc làm đó lại không hợp lý như việc muốn khởi động một chiếc ôtô thì phải vặn chìa khóa?
Câu trả lời là trong các nền kinh tế, nơi mà hàng triệu người làm việc và mua bán hàng ngày, các thị trường cá thể liên kết với nhau chặt chẽ đến nỗi nếu ta hạn chế sự mất cân đối này thì lại vô tình gây ra một loạt mất cân đối khác. Nếu ta áp đặt một giá trần đối với xăng dầu thì sẽ xảy ra tình trạng cung ứng thiếu và xếp hàng rồng rắn ở các trạm xăng dầu, như đã quá rõ đối với người Mỹ vào năm 1974. Nét đẹp của cơ chế thị trường là, khi nó hoạt động tốt, thường là như vậy, thì nó có xu hướng tạo nên sự cân bằng. Quan điểm của dân túy giống như là làm sổ sách kế toán một chiều. Nó chỉ ghi số thu về, ví dụ như các lợi ích tức thời của giá xăng dầu xuống thấp. Tôi tin rằng các nhà kinh tế luôn phải làm sổ sách kế toán hai chiều.
Vì thiếu các chính sách kinh tế cụ thể có ý nghĩa nên để thu hút mọi người theo mình, chủ nghĩa dân túy phải viện vào đạo lý. Theo đó, các nhà lãnh đạo dân túy phải có sức hấp dẫn và tinh thần quả cảm, thậm chí là cả khả năng chuyên chế. Hầu hết các nhà lãnh đạo như thế xuất thân từ quân đội. Họ không tranh luận về tính ưu việt của chủ nghĩa dân túy so với thị trường tự do. Họ không tuyên bố theo chủ nghĩa Mác. Thông điệp kinh tế của họ là một bài hùng biện đơn giản, được gia giảm bằng các từ ngữ như “bóc lột”, “công lý” và “cải cách ruộng đất”, mà không phải bằng các từ ngữ như “GDP” hoặc “năng suất”.
Với những người nông dân canh tác trên ruộng đất của người khác thì việc phân phối lại ruộng đất là một mục tiêu mong muốn. Các nhà lãnh đạo dân túy không bao giờ giải quyết mặt trái tiềm tàng có thể rất tác hại. Robert Mugabe, Tổng thống Zimbabwe từ năm 1987, hứa hẹn và đã đem lại cho những người đi theo ông ruộng đất tịch thu của người da trắng. Nhưng những người chủ đất mới không được chuẩn bị để quản lý ruộng đất. Sản xuất lương thực suy sụp, buộc phải nhập khẩu trên quy mô lớn. Thu nhập có thể đánh thuế giảm mạnh, buộc Mugabe phải in thêm tiền để tài trợ cho chính phủ. Vào lúc cuốn sách này được viết, siêu lạm phát đang gây ra các tác động xã hội nghiêm trọng ở Zimbabwe. Một trong các nền kinh tế thành công nhất trong lịch sử của châu Phi đang bị hủy hoại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét