Phần III D
ĐƯỜNG LỐI PHÁT
TRIỂN
Bách phân lợi tức quốc gia đóng góp mỗi năm vào quỹ trang bị
kỹ nghệ, cũng như
thời gian đóng góp đối với mỗi quốc gia mỗi khác. Điều này chứng minh rằng, mặc
dầu tất cả các quốc gia đã phát triển hay đương tìm phát triển, đều theo đuổi
một mục đích giống nhau: trang bị kỹ nghệ. Nhưng vì điều kiện lịch sử, vị trí địa
dư, và tình trạng xã hội lúc bắt đầu
công cuộc phát triển, đều mang những tính chất riêng biệt cho từng quốc gia,
cho nên hoàn cảnh phát triển, cũng như điều kiện phát triển không làm sao giống nhau được.
Vì thế, không có đường lối phát triển nào, gồm chương trình và phương pháp, đã tỏ ra có hiệu lực cho
một quốc gia, và trong một giai đoạn, có thể xuất cảng sang một quốc gia khác,
trong một giai đoạn khác. Mỗi quốc gia chỉ có thể phát triển theo một đường lối được quan niệm riêng cho quốc gia đó,
ấn định bởi điều kiện lịch sử, vị trí địa dư, và tình trạng xã hội đặc biệt cho
quốc gia.
Tinh thần của sự phát triển, mục đích của sự phát triển, và
những thực hiện kỹ thuật của công cuộc phát triển, đều giống nhau cho các quốc
gia, nhưng
chương trình phát triển, phương pháp phát triển và những mục
tiêu giai đoạn của công cuộc phát triển không thể giống nhau được. Nhiệm vụ của các nhà lãnh đạo là
tìm cho được
các yếu tố quy định đường
lối phát triển thích nghi với dân tộc, thay vì thừa nhận làm của mình, một đường lối đã được nghiên cứu và được chứng minh là có hiệu lực riêng
cho quốc gia, nhưng
phương pháp lẫn chương trình đều không thích hợp cho
chúng ta.
Đường
lối phát triển cho Trung Cộng, không thể là đường lối phát triển của Nga Sô. Phong
trào nhân dân công xã, mà Nga Sô đã đả kích từ lúc bắt đầu, mặc dầu thất bại
đau đớn, vẫn là một bằng chứng hùng biện cho nỗ lực của các nhà lãnh đạo Trung
Cộng để tìm đường
lối phát triển đặc biệt thích nghi với nước Tàu. Và chúng ta còn nhớ, ngay trong giai đoạn tranh
giành độc lập lúc nào các nhà lãnh đạo Ấn Độ cũng đủ sáng suốt nhìn thấy thâm ý
chiến lược
của Nga Sô, nên không bị ma lực của thuyết Cộng Sản, trong thời kỳ cực thịnh
lôi cuốn.
Và ngày nay, công cuộc phát triển của Ấn Độ cũng theo một đường lối riêng biệt, đã được ân định bởi những điều kiện nội
bộ của dân tộc Ấn. Chủ trương
một đường
lối phát triển riêng cho dân tộc không có nghĩa là phủ nhận những kinh nghiệm
phát triển của các quốc gia đã đi trước và phủ nhận những điều tương đồng trong công cuộc phát triển
giữa nhiều quốc gia. Trái lại chỉ có sự nghiên cứu các kinh nghiệm phát triển,
ở mọi nơi, mới tạo đủ điều kiện cho các nhà lãnh đạo một quốc gia, nắm vững các
nguyên tắc chi phối sự phát triển để quan niệm một đường lối phát triển cho dân tộc,
thích nghi với hoàn cảnh đặc biệt, do những thực tế lịch sử ấn định.
MỤC TIÊU KINH
TẾ
Hoàn cảnh phát triển của một quốc gia là toàn bộ các điều
kiện ấn định bởi giai đoạn lịch sử, tình hình chính trị, trình độ xã hội, vị
trí địa dư
và tài nguyên kinh tế của quốc gia đó. Và chỉ trong sự tôn trọng toàn bộ các
điều kiện ấy, công cuộc phát triển mới có thể thực hiện được. Như thế thì hoàn cảnh phát triển chi
phối nghiêm khắc, đường
lối phát triển, nghĩa là chương
trình phát triển và phương
pháp vận dụng nhân lực để thực hiện chương trình phát triển.
Và trong các mục tiêu kinh tế cần phải thực hiện cho từng
giai đoạn, cũng như
trong những thời gian hạn định cho các mục tiêu, sẽ thể hiện một cách rõ ràng
những bức bách khắc nghiệt của hoàn cảnh phát triển. Mục tiêu càng cao, sự đóng
góp của nhân dân càng nặng, thời gian càng ngắn, sự gian lao của nhân dân càng
sâu đậm. Trong trường
hợp phát triển của Trung Cộng mà chúng ta đã đề cập đến, sự đóng góp của nhân
dân, càng năm càng lên cao, để thực hiện những mục tiêu vĩ đại, hy vọng đáp ứng
nhu cầu vô tận do một hoàn cảnh phát triển vô cùng khắc nghiệt đòi hỏi.
Trước
hết, công cuộc phát triển của một khối gần tám trăm triệu dân, tự nó đã mang
những trở lực vật chất kinh khủng, bởi vì khối phương tiện nhân lực và tư bản cần được vận dụng vô cùng to tát. Sau đó,
sự phát triển của một khối ngƣời gần bằng một phần tư nhân loại, là một sự cạnh tranh ghê
gớm và một sự đe dọa an ninh chưa
từng thấy trong lịch sử, cho tất cả các
quốc gia trên thế giới, kể cả Nga Sô, dù mà các nhà lãnh đạo Trung Cộng không
biểu lộ, một cách hiển nhiên như
hiện nay, những tham vọng xâm lăng đáng sợ.
Do đó, sự phát triển của Trung Cộng đương nhiên sẽ tạo phản ứng thù nghịch
của nhiều cường
quốc kể cả Nga Sô. Và những phản ứng này sẽ biến thành những trở lực không vượt qua được, cho công cuộc phát triển. Giả sử
mà, sự phát triển của Trung Cộng không tạo ra những phản ứng thù nghịch; và dù
có những thiện chí muốn trợ lực công cuộc phát triển ấy, thì cũng không có khối
viện trợ nào trên thế giới có thể thỏa mãn đến một bách phân đáng kể, các nhu
cầu phát triển của khối người
gần tám trăm triệu dân.
Các nhà lãnh đạo Trung Cộng, cố nhiên, ý thức sung mãn các
điều kiện khủng khiếp của hoàn cảnh phát triển khắc nghiệt của nước Tàu. Vì vậy cho nên, để tìm giải
pháp cho vấn đề phát triển dân tộc, mà đương nhiên họ xem là chính yếu, họ đã thi hành hai loại chính
sách, từ ngày nắm chính quyền. Loại thứ nhất gồm các biện pháp nội bộ nhằm thúc
đẩy công cuộc phát triển thật nhanh chóng để kịp thời ứng phó với các phản ứng
thù nghịch của các cường
quốc. Loại thứ hai gồm các biện pháp ngoại giao, để như nước Nga khi xưa, tìm đồng minh hậu thuẫn cho công
cuộc phát triển của dân tộc.
Các biện pháp nội bộ của các nhà lãnh đạo Trung Cộng chú
trọng đến hai điểm. Đặt những mục tiêu kinh tế vĩ đại cho hai khu vực, quốc
phòng và trang bị kỹ nghệ sản xuất, và bóp nghẹt khu vực tiêu thụ. Áp dụng một
phƣơng pháp độc tài, tàn nhẫn đến tột độ để huy động đến mức tối đa cái vốn
nhân lực vô tận của Tàu, để thay thế cái vốn tư bản mà họ nghèo nàn.
Trong lĩnh vực ngoại giao, các nhà lãnh đạo Trung Cộng đã và
đang thi hành ba chiến dịch. Trong chiến dịch thứ nhất, họ đã tìm khai thác mâu
thuẫn giữa Tây phương
và Nga Sô khi mâu thuẫn này còn khai thác được, để mang tư bản và kỹ thuật vào phục vụ chương trình phát triển. Khi kế hoạch
thanh toán mâu thuẫn của Tây phương,
mà chúng ta đã biết, đã đưa
mâu thuẫn trên vào tình trạng không còn khai thác được nữa, thì các nhà lãnh đạo Trung
Cộng mở một chiến dịch thứ nhì, vận động thay chân Nga Sô, với mục đích thành
lập một mặt trận làm hậu thuẫn cho công cuộc phát triển của Tàu. Tác dụng và
giá trị của mặt trận Cộng Sản để bảo vệ công cuộc phát triển của dân tộc Tàu
ngày nay do Trung Cộng chủ trương,
cũng giống như
tác dụng và giá trị của mặt trận Cộng Sản để bảo vệ công cuộc phát triển của
dân tộc Nga trước
đây, do Nga Sô chủ trương.
Chiến dịch ngoại giao thứ ba mà các nhà lãnh đạo Trung Cộng
đang thực hiện là chương
trình viện trợ cho các nước
nhỏ đang tìm phát triển. Họ đã trích một bách phân không đáng kể, trong cái
khối nhu cầu vĩ đại của quốc gia, để thỏa mãn những nhu cầu phân bộ và đương nhiên nhỏ nhặt của các quốc gia
nhỏ đang tìm phát triển với mục đích biến các quốc nhỏ này thành những Đồng
Minh quốc tế hậu thuẫn cho công cuộc phát triển riêng của nước Tàu. Và ngay chính sách biểu lộ
tham vọng xâm lăng cũng là một hành động có tính toán qui về mục đích trước và trên hết của Trung Cộng hiện
nay: công cuộc phát triển dân tộc.
Các trƣờng hợp chiếm đóng Tây Tạng và Tân Cương và chi phối Bắc Hàn và Bắc Việt
là những trường
hợp đặc biệt, bởi vì các vùng đất đai nói trên thuộc vào những vùng thiết yếu cho sự phát triển của Trung Hoa.
Các cuộc gây hấn về ranh giới với Ấn Độ, Miến Điện và Nga Sô, có tác dụng, vừa
gây uy tín của Trung Cộng đối với các đồng minh trong mặt trận do Trung Cộng
chủ trương,
vừa duy trì sự căng thẳng cần thiết trong nội bộ để dễ huy động nhân lực. Mặc
dầu tất cả các nỗ lực phi thường
trên đây, nhưng
vì một hoàn cảnh phát triển vô cùng khắc nghiệt, Trung Cộng còn cách mục đích
rất xa.
Và sự cho nổ bom nguyên tử, với một mục đích tuyên truyền
hiển nhiên, vẫn chưa
phải là một bảo đảm thành công cho công cuộc phát triển của Trung Cộng. Sự thất
bại đau đớn của phong trào Nhân Dân Công Xã, khiến cho các mục tiêu kinh tế đã
ấn định, thay vì nhảy vượt
bậc, đã thụt lùi lại nhiều năm, chứng tỏ sự vội vàng của các nhà lãnh đạo Trung
Cộng đang lo sợ phản ứng thù nghịch không tránh được của các cường quốc, trong đó có cả Nga Sô.
TRƯỜNG HỢP VIỆT
NAM
Tất cả các điều kiện khốc liệt đã khiến cho hoàn cảnh phát
triển của Trung Cộng trở
thành vô cùng khắc nghiệt, đều không có trong các điều kiện chi phối hoàn cảnh
phát triển của Việt Nam. Trước
hết, sự phát triển của một khối vừa hơn ba chục triệu, một phần hai mươi lăm của khối Trung Cộng, sẽ không
là một sự cạnh tranh và một sự đe dọa cho ai cả. Vì thế cho nên, trong hiện
tình thế giới, công cuộc phát triển của chúng ta sẽ không tạo cho chúng ta
những phản ứng thù nghịch. Nhu cầu phát triển của chúng ta rất ít so với nhu
cầu phát triển của Trung Cộng. Vì thế cho nên các khối viện trợ trên thế giới
có thể thỏa mãn nhu cầu phát triển của chúng ta đến một bách phân đáng kể hoặc
rất cao.
Và chúng ta có thể tin rằng, nếu đường lối chính trị của chúng ta đủ
sáng suốt, thì trong hai mươi
năm đã qua, khai thác cơ hội thứ nhì, mà chúng ta đã đề cập đến nhiều lần, và
với tất cả các viện trợ do mâu thuẫn giữa Tây phương và Nga Sô tạo nên, chúng ta đã
đạt đa số mục tiêu phát triển rồi. Sự phát triển của khối ba chục triệu dân của
chúng ta, nếu ở ngoài vòng hoàn cảnh phát triển khắc nghiệt của Trung Cộng,
không cần thúc đẩy, cũng có thể thực hiện được nhanh chóng hơn bội phần sự phát
triển của Trung Cộng. Trong các điều kiện đó, nếu đặt quyền lợi của dân tộc lên
trên hết, thì không có một lý do nào có thể binh vực được sự gắn liền vận mạng công cuộc
phát triển của chúng ta với vận mạng công cuộc phát triển của Trung Cộng. Chỉ
có một sự lệ thuộc về lý thuyết, mà thật ra cả Nga Sô lẫn Trung Cộng đều sử
dụng như
là một phương
tiện, mới có thể mù quáng hy sinh quyền lợi của dân tộc Việt Nam cho quyền lợi
của dân tộc Trung Hoa.
Các nhà lãnh đạo Trung Cộng ý thức sung mãn tâm lý đó ngày
nay, cũng như
các nhà lãnh đạo Nga Sô ý thức sung mãn tâm lý đó trước đây. Vì vậy cho nên, Trung Cộng
nỗ lực vận động thay chân Nga, phất cờ Chủ Nghĩa Xã Hội, khai thác lý thuyết
Các-Mác Lênin, qui tụ những người dễ bị ma lực cám dỗ, với mục đích
cuối cùng là hậu thuẫn cho công cuộc phát triển của Hán Tộc. Cuộc vận động này
vang dội trong tất cả các Đảng Cộng Sản trên thế giới.
Mặc dầu hoàn cảnh phát triển của Việt Nam khác biệt rất rõ
rệt hoàn cảnh phát triển của Trung Cộng ngày nay, và do đó lại cũng khác biệt
rất rõ rệt hoàn cảnh phát triển của Nga Sô trước đây, các nhà lãnh đạo Cộng Sản
Bắc Việt vẫn cố sức mang cái áo đường
lối phát triển của Cộng Sản để tròng vào cho Việt Nam. Cũng như xưa kia, nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam
khác đã cố sức tròng vào thân thể Việt Nam cái áo Tam Dân Chủ Nghĩa mà Tôn Văn
đã gia công nghiên cứu may cắt cho dân tộc của ông.
Sau tám trăm năm đè nặng lên đời sống của dân tộc tâm lý
thuộc quốc đối với Trung Hoa, mặc dầu bị gián đoạn trong gần một thế kỷ, vẫn
còn sinh lực tiềm tàng trong cân não của các nhà lãnh đạo của chúng ta, và
khiến cho họ dễ quên tham vọng đất đai bất di bất dịch của Trung Hoa đối với
Việt Nam.
LẠI TÂM LÝ
THUỘC QUỐC
Tâm lý thuộc quốc bắt nguồn từ hai sự kiện. Tương quan lãnh thổ và dân số giữa hai
quốc gia là một nguyên nhân tự ty mặc cảm. Sự lệ thuộc của Việt Nam đối với văn
hóa Tàu là một lý do khác. Tương
quan lãnh thổ và dân số là hai điều kiện vật chất hiển nhiên khó thay đổi được. Tuy nhiên, trong khung cảnh
chính trị của thế giới ngày nay, sự bang giao giữa Việt Nam và Trung Hoa không
còn nằm trong khuôn khổ xưa
nữa và không còn là một sự kiện chỉ liên quan đến hai quốc gia. Trên lĩnh vực
văn hóa, một dân tộc lớn hay nhỏ, do sự góp phần nhiều hay ít của dân tộc ấy
vào di sản của văn minh nhân loại.
Trong lịch sử cổ Hy Lạp, thành Athen nhỏ bé được tôn sùng là người hướng đạo của dân tộc Hy Lạp, vì sự
góp phần to tát vào di sản văn minh Hy Lạp. Điều kiện văn hóa này, chúng ta có
thể chủ động được,
miễn là công cuộc phát triển của dân tộc thực hiện được. Và thế hệ của chúng ta có thể có
đủ điều kiện và hoàn cảnh để thực hiện ý chí của Lý Thƣờng Kiệt và Nguyễn Huệ,
tiêu diệt tâm lý thuộc quốc đã mấy ngàn năm bao trùm dân tộc và ám ảnh các thế
hệ lãnh đạo của chúng ta.
Xem thế, chúng ta càng ý thức tính cách quan trọng của công
cuộc phát triển dân tộc trong giai đoạn này. Sự lệ thuộc của Việt Nam đối với
văn hóa Tàu đã như không
còn nữa, từ khi chúng ta chịu ảnh hưởng văn hóa Tây phương. Trong tình thế hiện tại, tương lai sẽ càng ngày càng xác nhận
sự kiện này, trừ ra khi nào chúng ta lại tự đặt chúng ta vào sự lệ thuộc văn
hóa của Trung Cộng, như
các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt đang làm.
Trong tình thế hiện nay, chẳng những văn hóa của chúng ta
không lệ thuộc văn hóa Tàu, mà lại văn hóa của chúng ta còn có cơ hội phát
triển hơn bao giờ hết. Hiện nay Trung Hoa và Việt Nam, do các biến cố lịch sử
vừa qua, đều nằm vào cùng một vị trí. Cả hai đều vừa thoát khỏi sự chi phối của
thực dân, và đang nỗ lực Tây phương
hóa để phát triển dân tộc. Các dị điểm và các đồng điểm giữa hai vị trí đã được chúng ta phân tích với chi tiết
trong các đoạn trên. Và chúng ta cũng biết rằng công cuộc phát triển dân tộc
bằng cách Tây phương
hóa sẽ gồm sự thâu nhận nhiều giá trị tiêu chuẩn dính liền với kỹ thuật Tây phương.
Do đó, xã hội Trung Hoa cũng như xã hội Việt Nam sẽ đương nhiên bị bắt buộc tìm một trạng
thái điều hòa mới giữa các giá trị tiêu chuẩn. Chúng ta đã thấy hoàn cảnh phát
triển của chúng ta thuận lợi hơn hoàn cảnh phát triển của Trung Hoa. Trong một
đoạn dưới
đây chúng ta sẽ thấy rằng điều kiện ngôn ngữ của chúng ta cũng thuận lợi hơn
của Trung Hoa. Như
thế thì, nếu chúng ta thực hiện được
công cuộc phát triển, sự lệ thuộc văn hóa của chúng ta đối với Trung Hoa không
bao giờ tái diễn nữa.
Tóm lại, nếu tương
quan lãnh thổ và dân số, giữa Việt Nam và Trung Hoa, trong khung cảnh chính trị
của thế giới ngày nay, không còn cái tầm quan trọng của nó khi xưa nữa, và nếu sự lệ thuộc văn hóa
đối với Trung Hoa cũng không còn nữa, thì đương nhiên tâm lý thuộc quốc của
chúng ta đối với Trung Hoa cũng sẽ bị tiêu diệt mãi mãi. Như thế thì, nếu chúng ta có một sự
lãnh đạo sáng suốt để bảo đảm công cuộc phát triển dân tộc, thì cơ hội, đương nhiên sẽ đến với chúng ta để
giải quyết một vấn đề đã đặt ra cho dân tộc từ một ngàn năm nay, và hai lần Lý
Thường Kiệt và Nguyễn Huệ đã cố tìm
giải pháp: cởi bỏ cho dân tộc tâm lý thuộc quốc đối với Trung Hoa.
Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt không tỏ ra ý
thức tính cách quan trọng của cơ hội này. Trái lại, sự áp dụng các phương pháp huy động nhân lực của Trung
Cộng vào trường
hợp Việt Nam, mặc dầu hoàn cảnh phát triển của chúng ta không hề đòi hỏi những
phương tiện như vậy, làm sống lại tâm lý thuộc
quốc, gần như
đã chết trong một thế kỷ, của những người tự ty mặc cảm trước Trung Hoa vĩ đại, lúc nào cũng xem Việt Nam là một Trung
Hoa con con.
Từ xưa,
dưới sự chi phối của tâm lý thuộc
quốc, nếu Trung Hoa diễn một tấn tuồng trên sân khấu trăm thước vuông, thì Việt Nam cũng phải
diễn cũng một tấn tuồng thúc lại cho vừa tầm, trên một sân khấu chỉ còn một thước vuông. Xưa kia, vì nước Tàu có một tòa Văn Miếu lớn, thì
Việt Nam cũng phải có một tòa Văn Miếu nho nhỏ. Gần đây, vì nước Tàu có sách lược Tam Dân Chủ Nghĩa rộng lớn, thì
Việt Nam cũng có sách lược
Tam Dân Chủ Nghĩa nho nhỏ. Và ngày nay, vì nước Tàu thi hành phương pháp độc tài Đảng trị kinh khủng
một cách rộng lớn, thì Bắc Việt cũng thi hành phương pháp độc tài Đảng trị kinh khủng
một cách nho nhỏ.
Hoàn cảnh phát triển của chúng ta không đòi hỏi những biện
pháp dựa trên bạo lực, mà chỉ đòi hỏi một sự lãnh đạo sáng suốt và khôn ngoan,
để khai thác các loại mâu thuẫn, trên chính trường thế giới, với mục đích tìm vốn tư bản để thỏa mãn nhu cầu phát triển.
Nhưng, giả sử mà viện trợ ngoại quốc
cho chúng ta, không lên đến một bách phân quan trọng của nhu cầu phát triển
quốc gia, thì chính trường
hợp đó cũng chưa
đủ để thuyết minh sự áp dụng vào Việt Nam, phương pháp huy động nhân lực thi hành
ở Trung Cộng.
Trong chương
trình phát triển của Trung Cộng, ưu
tiên đặc biệt được
dành cho khu vực kỹ nghệ quốc phòng. Sau đó đến khu vực kỹ nghệ sản xuất. Khu
vực tiêu thụ bị bóp nghẹt. Thứ tự ưu
tiên trên phản ảnh mối lo âu của các nhà lãnh đạo Trung Cộng, tìm cách ứng phó
với các phản ứng thù nghịch. Và thứ tự ưu tiên trên đương
nhiên đòi hỏi các biện pháp huy động nhân lực đã áp dụng. Sự phát triển của
Việt Nam không gây phản ứng thù nghịch. Nhưng giả sử sự phát triển của chúng ta
có gây phản ứng thù nghịch, thì dù chúng ta có dồn hết nỗ lực của dân tộc vào
khu vực quốc phòng thì, như
chúng ta đã biết, tất cả cố gắng quân sự của chúng ta cũng chưa đủ để bảo vệ độc lập và lãnh thổ.
Như
thế thì, trong chương
trình phát triển của chúng ta, ưu
tiên dành cho khu vực sản xuất và khu vực tiêu thụ. Một thứ tự ưu tiên như vậy không đòi hỏi các biện pháp huy
động nhân lực của Trung Cộng. Nhưng
dù là trong một hoàn cảnh phát triển thuận lợi, sự huy động nhân lực theo lối
Cộng Sản, không phải là một yếu tố để thúc đẩy công cuộc phát triển chóng đến
thành công sao?
Trên quan điểm dài hạn của đời sống dân tộc, sinh lực dân
tộc là một của báu, mà bất cứ nhà lãnh đạo nào cũng phải đặt cho mình nghiêm
luật không được
tiêu hao hay phí phạm, khi quyền lợi của cộng đồng bắt buộc phải dùng đến. Các
nhà lãnh đạo Trung Cộng sở dĩ phải chọn lựa phương pháp hành động như vậy, vì họ bị sự chi phối của hoàn
cảnh phát triển khắc nghiệt của nước
Tàu.
Việt Nam không ở vào trường hợp bắt buộc đó. Vả lại, các phương pháp huy động nhân lực theo Cộng
Sản sẽ lưu
lại cho dân tộc những hậu quả như
thế nào? Chúng ta chỉ có thể nhận xét rằng, cho đến ngày nay, nghĩa là gần hai
trăm năm sau, dân tộc Pháp còn mang chịu những hậu quả tai hại của cuộc Cách
Mạng năm 1789, mặc dầu trên phương
diện bạo tàn và đẫm máu, Cách Mạng 1789 của Pháp còn kém xa Cách Mạng của Nga
Sô và Cách Mạng của Trung Cộng.
Sau hết, giả sử, chúng ta bỏ qua hết tất cả lý do thuận hay
không thuận, cứ thi hành triệt để các phương pháp huy động nhân lực của Cộng Sản để thực hiện công
cuộc phát triển của dân tộc, thì cái vốn nhân lực ba chục triệu của chúng ta
cũng không đủ cung cấp thêm được
bao nhiêu bách phân của khối nhu cầu phát triển của chúng ta. Từ hai mươi năm nay, cơ hội phát triển đã đến
cho chúng ta. Nhưng
chúng ta chưa
nắm được.
Từ mười năm nay, Bắc Việt chưa thực hiện được những mục tiêu phát triển nào đáng kể. Các thực hiện phát triển
của Nam Việt đều bị du kích quân Bắc Việt phá hoại. Sau hai mươi năm, và sau khi tiêu hao bao
nhiêu sinh lực của dân tộc, chúng ta đã đạt được kết quả kể trên. Như thế thì, các nhà lãnh đạo của chúng
ta có phải đã đi đúng đường hay không?
(Hết phần III)
Ngô Đình Nhu (1910-1963)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét