CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM - PHẦN IIc
Ngô Đình Nhu (1910-1963)
**
MỘT VÍ DỤ LỊCH SỬ
MỘT VÍ DỤ LỊCH SỬ
Nếu có người nghĩ rằng,
có lẽ thời gian chưa đủ dài, để cho các công cuộc Tây Phương Hóa nói trên, hoàn
toàn xâm nhập vào các lĩnh vực tôn giáo, thì chúng ta có thể lấy trường hợp của
đế quốc Hy Lạp La Mã khi xưa đối với các quốc gia ở trong khu vực ảnh hưởng của
mình, để thêm một bằng cớ rằng công cuộc Tây Phương Hóa ngày nay không vượt qua
được lĩnh vực tôn giáo.
Xưa kia, các nước nằm
trong đế quốc La Mã, hoàn toàn La Mã hóa trên mọi lĩnh vực, trừ ra lĩnh vực tôn
giáo, mặc dù sự thống trị của đế quốc La Mã đã kéo dài gần một ngàn năm. Hơn thế
nữa, sau đó, chính một tôn giáo Đông Phương, Gia Tô Giáo, đã thống trị ngược lại
hết đế quốc La Mã-Hy Lạp lúc bấy giờ. Nhưng đó là một vấn đề thuộc về một địa hạt
lớn lao mà chúng ta không thể đề cập ở đây được. Nay chỉ cần ghi nhớ thêm một
điểm: Công cuộc Tây Phương Hóa không vượt qua được lĩnh vực tôn giáo. Sau này
chúng ta sẽ trở lại vấn đề này.
Trên lĩnh vực văn
hóa, tình trạng có hơi khác. Văn hóa Dân Tộc bắt nguồn từ di sản tinh thần thừa
hưởng của dĩ vãng gồm, một mặt, các sáng tác văn hóa khẩu truyền hay thư loại,
một mặt, đặc thức suy tưởng của Dân Tộc mà di sản đó đã hun đúc trong nhiều thế
hệ. Nay, mở cửa tiếp văn minh Tây phương có nghĩa là thâu nhận thêm nhiều sáng
tác văn hóa.
Nhưng sự thâu nhận,
dù có lên đến một mức độ quan trọng nào cũng không phủ nhận được di sản tinh thần
của dĩ vãng.
Do đó, đặc thức suy tưởng cổ truyền của Dân Tộc, nếu có bị ảnh
hưởng ít nhiều, vẫn giữ nguyên bản chất. Như vậy ta nên chia lĩnh vực văn hóa
làm hai phần: Phần thứ nhất là phần văn hóa hấp thụ, và phần thứ hai là phần
văn hóa sáng tạo. Phần hấp thụ sẽ thu nhận văn hóa Tây phương và chịu Tây
Phương Hóa. Nhưng phần sáng tạo chắc chắn sẽ giữ đặc tính của Dân Tộc vì chịu ảnh
hưởng đặc thức suy tưởng cổ truyền.
Như vậy chúng ta có thể tin rằng công cuộc Tây Phương Hóa sẽ
không làm mất tính chất Dân Tộc, nếu chúng ta, sau khi chế ngự được các kỹ thuật
của Tây phương, lên đến mức độ sáng tạo với những phương tiện kỹ thuật đó. Những
sự kiện dưới đây có thể xem như là những bằng cớ để xác nhận điều quả quyết
trên đây.
Các Dân Tộc ở Âu Châu
đều sống trong một nền văn minh kỹ thuật chung. Chẳng những tất cả các phương
tiện kỹ thuật về sản xuất, về vận chuyển, về thông tin, vân vân…đều như nhau,
mà cho đến những chi tiết trong đời sống hằng ngày cũng giống nhau, mặc cùng một
thứ quần áo, ăn cùng một thức ăn. Nhưng tất cả các sáng tác trong mỗi ngành của
mỗi Dân Tộc đều khác. Ví dụ âm nhạc của một người Đức, không bao giờ giống âm
nhạc của một người Anh. Nghĩa là, mặc dù sống trong một không khí văn minh kỹ
thuật duy nhất, nhưng các di sản tinh thần của mỗi Dân Tộc vẫn cứ bộc lộ trong
các sáng tạo của Dân Tộc đó.
Sau hơn bốn mươi năm
của một công cuộc Tây Phương Hóa triệt để, thâm nhập mọi lĩnh vực của đời sống,
các sáng tạo văn hóa của Nga Sô vẫn mang đặc tính Dân Tộc người Nga.
Sau hơn một trăm năm
Tây Phương Hóa toàn diện, các sáng tạo văn hóa của Nhật vẫn mang đặc tính Dân Tộc
Nhật.
Có lẽ tới đây chúng
ta không cần kéo dài cuộc biện luận nữa. Chúng ta có thể quả quyết rằng một
công cuộc Tây Phương Hóa toàn diện không làm mất bản chất Dân Tộc, miễn là
chúng ta phải vượt lên được đến mức sáng tạo. Dưới mức này, cố nhiên là Dân Tộc
tính không bộc lộ được, và trong không khí ồ ạt của văn minh kỹ thuật Tây
phương, Dân Tộc tính có vẻ như bị mất. Nay, nếu chúng ta phán đoán theo vẻ bên
ngoài ấy thì chúng ta sẽ rụt rè như các cụ, xưa kia, sợ mất quốc hồn quốc túy
và công cuộc Tây Phương Hóa của chúng ta sẽ thất bại và mang đến tất cả các hậu
quả tai hại, mà chúng ta biết.
Ảnh hưởng tương phối
giữa tôn giáo và sự kiện Tây Phương Hóa.
Trước khi sang vấn đề
Tây Phương Hóa đến mức độ đủ cao, chúng ta trở lại một chút về vấn đề tôn giáo
và công cuộc Tây Phương Hóa. Công cuộc Tây Phương Hóa không vượt qua được lĩnh
vực tôn giáo và tín ngưỡng. Vấn đề này đã được đề cập đến nhân khi bàn đến giới
hạn ảnh hưởng của công cuộc Tây Phương Hóa. Tuy nhiên tự nó vấn đề tôn giáo
không quan hệ đối với một công cuộc Tây Phương Hóa.
Trước đây xã hội Tây
phương xây dựng trên căn bản tinh thần của Đạo Giáo Gia Tô. Nhưng sau đó nhiều
sự mâu thuẫn nội bộ về giáo lý đã làm nguồn gốc cho những cuộc chiến tranh tôn
giáo tàn khốc làm suy giảm tín ngưỡng của đại chúng. Và kế đó, sau khi thoát khỏi
sự gò bó tư tưởng của Giáo Hội La Mã, khoa học Tây phương mới phát triển được đến
mức độ ngày nay và trang bị xã hội Tây phương với những phát minh hùng mạnh. Sự
giảm tin tưởng vào một tôn giáo, đã có một thời chủ trương những tư tưởng chật
hẹp về vũ trụ, đã làm lung lay đến tận nền tảng cơ sở tôn giáo của xã hội Tây
phương. Nhưng vừa đúng lúc khi văn minh Tây phương chứng kiến sự suy giảm của đức
tin vào sức mạnh tín ngưỡng mà Gia Tô Giáo đã hun đúc trong nhiều Thế Kỷ, thì
văn minh Tây phương lại được khoa học tạo cho mình một đức tin vào sức mạnh kỹ
thuật, mà tính cách hữu hiệu trong công cuộc chinh phục thế giới còn hơn bội phần
sức mạnh tín ngưỡng đã mất.
Gần đây, sau khi khoa học đã tỏ ra không đủ khả năng để giải
quyết một mình các vấn đề căn bản của nhân loại, thì tinh thần tôn giáo lại phục
hưng. Nhưng cho đến ngày nay, sự phục hưng tinh thần tôn giáo trong xã hội Tây
phương chưa lên đến một mức độ đủ cao để cho sự thâu thập văn minh Tây phương,
mặc nhiên, bắt buộc sự thâu thập tôn giáo Tây phương.
Do đó, trong thời kỳ
hiện nay, có thể gọi là thời kỳ hậu tôn giáo của văn minh Tây phương, vấn đề
tôn giáo không quan trọng đối với công cuộc Tây Phương Hóa. Nhưng vấn đề tôn
giáo lại có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng cho công cuộc Phát Triển Dân Tộc
như chúng ta sẽ thấy sau này.
Công cuộc Tây Phương
Hóa đến mức độ đủ cao.
Mấy trăm năm kinh
nghiệm của Nga và gần một Thế Kỷ kinh nghiệm của Nhật chỉ cho chúng ta thấy hai
điều:
Trước hết là, một
khi, để chống lại với sự tấn công của văn minh Tây phương, chúng ta đã lao mình
vào công cuộc Tây Phương Hóa, và nếu công cuộc Tây Phương Hóa của chúng ta
không đạt đến một mức độ đủ cao thì, sự đe dọa nói trên vẫn còn mãi, và mục
đích của cuộc Tây Phương Hóa sẽ không đạt được. Bởi vì, như chúng ta đã thấy
trong trường hợp của hai nước kể trên đây, và nhất là trong thời kỳ đầu của trường hợp Nga, nếu chúng ta không Tây Phương Hóa đến mức độ
đủ cao thì lúc nào chúng ta cũng chạy theo đuôi kỹ thuật Tây phương và do đó sự
đe dọa không chấm dứt được.
Điều thứ hai lại do
điều thứ nhất mà ra.
Muốn không chạy theo
đuôi kỹ thuật Tây phương nữa thì chúng ta phải chế ngự cho được khả năng sáng tạo
khoa học của Tây phương. Lúc bấy giờ, như Nga Sô ngày nay, chúng ta sẽ có đủ khả
năng để góp phần vào công cuộc sáng tạo kỹ thuật chung của nhân loại. Thực hiện
được sự góp phần này đương nhiên chúng ta sẽ tự cung cấp hai thắng lợi: Thứ nhất
chúng ta sẽ trở thành ngang hàng với các nước trên thế giới trên phương diện
đóng góp vào văn minh nhân loại, và thứ hai là sự ngang hàng đó, cũng như kỹ
thuật đã tiến bộ của chúng ta, sẽ bảo đảm cho chúng ta thoát khỏi sự uy hiếp của
các nước lớn, mối đe dọa truyền kiếp cho chúng ta đến ngày nay. Có một quan niệm
sai lầm cho rằng công cuộc Tây Phương Hóa của một nước lên đến mức độ đủ cao
khi nào nước đó có thể tự túc về các sản phẩm kỹ thuật và khoa học của Tây
phương. Quan niệm đó sai lầm ở chỗ nó phản lại bản chất bao quát và nhân loại của
khoa học. Và một khoa học cô lập là một khoa học không tiến bộ nữa. Nhưng vấn đề
này lại thuộc một địa hạt rộng lớn khác.
Trở lại vấn đề Tây
Phương Hóa đến mức độ đủ cao, các đoạn trên này cho chúng ta thấy rằng Tây
Phương Hóa đến mức độ đủ cao, có nghĩa là Tây Phương Hóa đến khi nào chúng ta
chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Cho đến khi nào chúng
ta chưa ra khỏi giai đoạn hấp thụ khoa học và kỹ thuật Tây phương, thì chúng ta
vẫn chưa thoát lên đến mức độ đủ cao. Chỉ khi nào chúng ta sử dụng được, chẳng
những là khoa học và kỹ thuật Tây phương, mà lại còn cả phương tiện sáng tạo
khoa học và kỹ thuật, thì chúng ta mới đạt đến mức độ đủ cao trong công cuộc
Tây Phương Hóa.
Vì vậy cho nên, khi
nào chúng ta còn thấy tự mãn sau khi đã hấp thụ được kỹ thuật và khoa học của
Tây phương, thì công cuộc Tây Phương Hóa đã bắt đầu thất bại. Trong thực tế bao
giờ mà các chuyên viên của chúng ta gởi đi du học ngoại quốc còn lấy làm tự mãn
sau khi vừa hấp thụ xong các kỹ thuật và khoa học của ngành mình, thì công cuộc
Tây Phương Hóa của chúng ta còn ở vào một mức độ thấp và lúc nào cũng bị sự thất
bại đe dọa. Chỉ khi nào các chuyên viên của chúng ta, sau khi đã hấp thụ được
các kỹ thuật và khoa học của ngành mình, lại ý thức rõ rệt rằng, chỉ vừa bước
đi qua một giai đoạn sơ khởi, và còn cần phải nỗ lực để đạt đến chỗ chế ngự được
khả năng sáng tạo trong ngành của mình, thì lúc bấy giờ cuộc Tây Phương Hóa của
chúng ta mới đi đúng đường và có hy vọng thành công.
Sự kiện trên đây giải thích cho chúng ta hiểu vì sao, trong
thời kỳ Pháp thuộc khối người mới vừa Tây Phương Hóa được đến một mức độ rất thấp,
chiếm được vài cái bằng cao cấp, đã lấy làm tự mãn, và từ đó sự tiến bộ đã ngừng
hẳn. Sự kiện này chứng minh một cách rõ ràng rằng công cuộc Tây Phương Hóa của
chúng ta ở thời kỳ Pháp thuộc, không được hướng dẫn, không có lãnh đạo cho nên
những người “theo mới” không biết đi đến mức nào là đúng. Chưa chi đã lấy làm tự
mãn thì làm sao còn có ý chí để thực hiện một công cuộc Tây Phương Hóa đến mức
độ đủ cao, đòi hỏi nhiều nỗ lực và nhiều hy sinh.
Một công cuộc Tây Phương Hóa đến mức độ đủ cao là một điều
thiết yếu cho sự Phát Triển Dân Tộc, nhưng làm thế nào cho công cuộc Tây Phương
Hóa đạt đến mức độ ấy?
Sau khi đã phân tích như trên kia rồi thì chúng ta không còn
lọt vào sự lầm lẫn thông thường cho rằng hấp thụ kỹ thuật và khoa học là đã đạt
đến mức độ đủ cao. Và chúng ta biết rằng muốn đạt đến mức độ đó thì phải chế ngự
cho được khả năng sáng tạo khoa học và kỹ thuật. Nghĩa là phải học cho được cái
bí quyết của người Tây phương đã giúp cho họ đẻ ra khoa học và kỹ thuật.
Đặc tính của văn minh Tây phương
Sau khi hấp thụ khoa học và kỹ thuật Tây phương, thì mọi người
đều công nhận khoa học và kỹ thuật Tây phương có những đặc tính sau đây: Suy luận
chính xác, tổ chức ngăn nắp và minh bạch. Và phần đông đều nghĩ rằng chính tinh
thần khoa học Tây phương đã tạo những đặc tính ấy. Đó là một sự lầm lẫn thông
thường rất tai hại và nếu đã nghĩ như vậy thì không làm sao tìm được bí quyết
đã giúp cho Tây phương sáng tạo khoa học và kỹ thuật.
Sự thật là những đặc tính: Chính xác về lý trí, ngăn nắp và
minh bạch trong tổ chức là đặc tính của nền văn minh Tây phương. Và chính nhờ
có những đặc tính này, mà nền văn minh Tây phương đã sáng tạo ra khoa học. Khoa
học mang những đặc tính ấy như là những đặc tính bẩm sinh, chớ không phải khoa
học tạo ra các đặc tính ấy. Vì vậy cho nên sự hấp thụ khoa học và kỹ thuật của
Tây phương không, không đủ tạo cho người hấp thụ khả năng sáng tạo khoa học,
tiêu chuẩn của một công cuộc Tây Phương Hóa thành công đến mức độ đủ cao.
Trước khi khoa học phát minh và phát triển như ngày nay, tập
quán của người Tây phương đã chính xác trong suy luận và ngăn nắp minh bạch
trong tổ chức. Trái lại lối suy luận, ví dụ của người ở xã hội Đông Á là lối
suy luận trực giác, hình ảnh, và do đó, mơ hồ. Nhưng chính người Tây phương đã
thừa hưởng những đặc tính đó của văn minh Hy Lạp và La Mã. Chính xác về lý trí,
ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức đã nằm sẵn trong lối kiến trúc câu văn của
Hy Lạp cũng như của La Mã.
Sau khi đế quốc La Mã phía Tây, đóng đô ở Roma đã sụp đổ, xã
hội Tây phương trải qua một thời đại đen tối vì hai lý do. Trước hết sự xâm chiếm
của các bộ lạc man rợ đã cắt đứt xã hội Tây phương với nguồn gốc Hy Lạp, La Mã.
Lý do thứ hai là, vì sự tồn tại của xã hội Gia Tô Giáo Tây phương, Giáo Hội La
Mã, trong một thời kỳ vô cùng hỗn độn đã bắt buộc áp dụng một chủ trương đóng
khung tư tưởng đến cực độ. Vì đó mà, nếu Giáo Hội với tư cách là người thụ thác
của văn minh Hy Lạp La Mã khi xưa đã cứu vớt được tập quán ngăn nắp và minh bạch
trong đời sống, đã không bảo vệ được, đặc tính chính xác về lý trí của văn minh
Hy Lạp và La Mã.
Sau đó, nhờ tình hình tương đối ổn định, sự nối lại với nguồn
gốc văn minh Hy Lạp La Mã đã thực hiện được và xã hội Tây phương bước vào thời
kỳ thường gọi là Phục Hưng, phục hưng tinh thần văn minh Hy Lạp và La Mã, đồng
thời cởi bỏ được sự đóng khung tư tưởng của Giáo Hội. Và từ đó lần lần với sự củng
cố chính trị của các quốc gia trong xã hội Tây phương, khoa học mới phát minh
và nảy nở.
Sở dĩ các sự kiện lịch sử trên đây được nhắc lại là để chứng
minh rằng bí quyết đã giúp cho người Tây phương sáng tạo được khoa học và kỹ
thuật là ba đức tính ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức và chính xác về lý trí.
Họ đã dùng những đức tính ấy như những khí cụ giải phẫu sắc bén để tìm hiểu vũ
trụ và tạo hóa. Nếu không có những khí cụ thám cứu đó, sự tìm hiểu vũ trụ và tạo
hóa không thực hiện được. Và nếu sự tìm hiểu vũ trụ và tạo hóa không thực hiện
được thì khoa học không phát minh và nảy nở được. Tưởng nên nhắc lại một lần nữa
rằng người Tây phương không phải chỉ ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức và chính
xác về lý trí riêng trong lĩnh vực khoa học mà thôi. Họ đã ngăn nắp, minh bạch
tổ chức và chính xác về lý trí trong câu văn, lời nói, hành động và đời sống
hàng ngày. Trải qua nhiều Thế Kỷ các đức tính ấy đã được hun đúc thành tinh thần
kỹ thuật Tây phương.
Trở lại việc tìm hiểu vũ trụ và tạo hóa trên kia, chúng ta
nên thêm rằng một khi đã có trong tay những khí cụ thám cứu, việc tìm hiểu vũ
trụ chưa chắc đã có kết quả được, nếu chúng ta có một quan niệm chấp nhận vũ trụ
như Thượng Đế đã ban cho, và vì vậy, không cần tìm hiểu thêm nữa. Nhưng đây là
một điểm đã lọt sang lĩnh vực tôn giáo và công cuộc Tây Phương Hóa dưới đây.
Sự kiện đã như vậy
thì, nếu chúng ta muốn chế ngự khả năng sáng tạo khoa học chúng ta cần tạo cho
Dân Tộc các đức tính nói trên kia. Nói rõ hơn nữa đồng thời với vấn đề hấp thụ
khoa học và kỹ thuật đương nhiên phải có, chúng ta phải gieo sâu vào trí não của
mọi người tập quán ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức, và chính xác về lý trí. Chính
đó mới là căn bản của một cuộc Tây Phương Hóa chính danh có đường hướng và có mục
đích. Vấn đề đã đặt ra như vậy, chúng ta mới ý thức rõ rệt tính cách vĩ đại của
công cuộc Tây Phương Hóa mà chúng ta cần phải thực hiện. Không phải Tây Phương
Hóa một nhóm người, mà Tây Phương Hóa toàn thể Dân Tộc. Không phải Tây Phương
Hóa trên mặt, chỉ bắt chước lối sống của người Tây phương mà phải Tây Phương
Hóa cho đạt đến cái tinh túy văn minh Tây phương. Công cuộc đã vĩ đại như vậy,
thì, tuy chúng ta chưa bàn đến chi tiết thực hành, nhưng chúng ta cũng quan niệm
được, ngay bây giờ, tính cách lớn lao của các phương tiện cần phải vận dụng,
cũng như tính cách nặng nề của những hy sinh đòi hỏi và tính cách liên tục và
trường kỳ của những nỗ lực phi thường cần thiết.
Chúng ta phải ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức và chính xác
về lý trí, không phải riêng cho lĩnh vực nào, mà trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống, không phải riêng cho một trình độ trí thức nào, mà cho tất cả các
trình độ trí thức.
Nghĩa là ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức và chính xác về
lý trí phải chi phối tất cả hoạt động của chúng ta, trong gia đình cũng như
ngoài gia đình, từ phạm vì sinh hoạt thông thường đến những phát triển cao nhất
của lý trí. Do đó, vai trò của mỗi người đều quan trọng, và do đó, vai trò của
các người đàn bà trong gia đình vô cùng mật thiết với sự Phát Triển Dân Tộc.
Xem như thế, chúng ta
lại còn phân biệt rõ rệt đặc tính của hai cuộc Tây Phương Hóa. Cuộc Tây Phương
Hóa bắt buộc, không đường hướng, không mục đích, dưới thời Pháp thuộc, chỉ là một
cuộc Tây phương nông cạn, của một mớ người. Thậm chí, đến các người phụ nữ cũng
bị gạt ra khỏi việc theo mới: Trong khi các ông mặc âu phục, ăn theo Tây và nói
tiếng Tây, thì các bà vẫn phải vận ta, ăn theo ta, nói tiếng ta, để mà bảo vệ
phong tục Việt Nam.
Trái lại, công cuộc Tây Phương Hóa tự ý, có lãnh đạo, có mục
đích, như chúng ta quan niệm ngày nay, là một cuộc Tây Phương Hóa toàn diện cho
mọi người và đến mức độ đủ cao để cho mục đích của công cuộc Tây Phương Hóa đạt
được.
Cố nhiên một công cuộc đại qui mô như vậy đòi hỏi ở toàn
dân, những nỗ lực phi thường một cách liên tục và trường kỳ, những hy sinh lớn
lao và nặng nề. Nhưng thực hiện công cuộc Phát Triển Dân Tộc to tát đến tầm mức
ấy, là một hành động có mãnh lực hấp dẫn đến tột bậc, tất cả các phần tử của
Dân Tộc.
Một công cuộc Phát Triển Dân Tộc vĩ đại đến tầm mức ấy, hùng
mạnh như nước hải triều đang lên, hấp dẫn và lôi cuốn mọi người, vì đó là lẽ sống
của Dân Tộc.
Công cuộc Tây Phương Hóa tự ý.
Một công cuộc Tây Phương Hóa tự ý, có đường hướng và có mục
đích, phải toàn diện và đến mức độ đủ cao. Sự Tây Phương Hóa phải ăn sâu và lan
rộng đến toàn dân. Ngược lại một công cuộc Tây Phương Hóa bắt buộc như thời
Pháp thuộc, không có lãnh đạo, không có mục đích, hỗn độn và nông cạn, chỉ giới
hạn trong một nhóm người thường tiếp xúc với người Pháp. Công cuộc Tây Phương
Hóa thời Pháp thuộc, là một công cuộc tự nó phát sinh như cỏ dại, đụng đâu mọc
đấy, không ai chăm nom và cũng không ai thiết đến.
Công cuộc Tây Phương Hóa chúng ta chủ trương là một công cuộc
do chúng ta tạo ra như trồng một cây quí, lúc nào cũng phải săn sóc, vun phân,
tưới nước.
Vì các lý do trên, cho nên các nỗ lực Tây Phương Hóa của chúng ta phải đặt trọng tâm vào đại chúng. Mà ở xứ ta đa số quần chúng là ở nông thôn. Và lý luận đã dần dần dẫn dắt chúng ta đến một kết luận tối quan trọng cho hành động của chúng ta sau này: Công tác Tây Phương Hóa của chúng ta phải dồn nỗ lực về nông thôn, nơi tập trung đa số nhân lực và tài sản của quốc gia. Nếu chúng ta không làm như vậy thì chúng ta sẽ rơi vào cái sai lầm của các nhà lãnh đạo các quốc gia ở Cận Đông mà chúng ta đã thấy trên kia: Đương nhiên công cuộc Tây Phương Hóa của chúng ta sẽ giới hạn trong một nhóm nhỏ. Công cuộc Tây Phương Hóa, sẽ thất bại và lần lần đại chúng sẽ tách rời với nhóm lãnh đạo, và tình trạng đó sẽ tạo hoàn cảnh thuận tiện cho một cuộc cách mạng tiêu diệt nhóm người Tây Phương Hóa một cách riêng biệt.
Sở dĩ chúng ta chủ trương một công cuộc Tây Phương Hóa đến mức
độ đủ cao, mục đích là để chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học và kỹ thuật.
Khoa học và kỹ thuật của Tây phương mà chúng ta đã hấp thụ là những phương tiện.
Những đức tính ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức, chính xác về lý trí, sẽ cho
chúng ta khả năng chẳng những để sử dụng, mà còn cải tạo những phương tiện
trên. Như vậy khi nào chúng ta đạt đến mức độ đủ cao trong công cuộc Tây Phương
Hóa, là chúng ta đã đạt lên đến lĩnh vực sáng tạo, và chúng ta đã thấy rằng đến
mức đó, thì công cuộc Tây Phương Hóa không làm cho mất bản chất Dân Tộc.
Vả lại, ví dụ mà bản chất Dân Tộc có phải mất vì lẽ chúng ta
tự tạo cho chúng ta được những đức tính ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức, và
chính xác về lý trí, thì có lẽ bản chất Dân Tộc gồm những đặc tính ngược lại với
những đức tính trên. Nếu như thế thì, dù có phải mất bản chất Dân Tộc, để mà
thâu phục được những đức tính trên, thì cũng đáng mất.
Trong khi tìm những lý lẽ để trả lời câu hỏi nêu lên ở đầu
chương này chúng ta đã đương nhiên đề cập đến và giải thích như thế nào là một
công cuộc Tây Phương Hóa toàn diện và đến mức độ đủ cao.
Tôn giáo và công cuộc Phát Triển Dân Tộc bằng cách Tây
Phương Hóa.
Mục đích của công cuộc Tây Phương Hóa là để Phát Triển Dân Tộc,
và chúng ta cũng thấy rằng, nếu tôn giáo không quan trọng đối với công cuộc Tây
Phương Hóa, thì trái lại tôn giáo lại là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với
công cuộc Phát Triển Dân Tộc. Tính cách thiết yếu của công cuộc Phát Triển Dân
Tộc bằng cách Tây Phương Hóa không cần phải chứng minh nữa. Trên căn bản đó, dưới
đây chúng ta trở lại ảnh hưởng của tôn giáo đối với công cuộc Phát Triển Dân Tộc.
Tất cả các giáo lý đều xây dựng trên một toàn bộ khái niệm về
vũ trụ, trong đó đời sống của nhân loại ở thế gian này và ở thế giới bên kia là
phần quan trọng nhất. Đi vào chi tiết hơn, các khái niệm sẽ liên quan đến các
dây liên hệ giữa người và vũ trụ, và đến tính cách huyền bí của sự con người xuất
ra từ vũ trụ. Hồi Giáo và Gia Tô Giáo, chú trọng về phần sau của mệnh đề trên
đây, nên cả hai giải thích về số mệnh của con người sau khi rời cõi trần. Phật
Giáo, Lão Giáo lại chú trọng về phần trước của mệnh đề, dẫn dạy rất nhiều về tiền
kiếp. Ấn Độ Giáo chú trọng về cả hai phần của mệnh đề, và xây dựng thuyết linh
hồn vũ trụ. Khổng Giáo không phải là một tôn giáo.
Chúng ta lại có thể chia các giáo lý ra làm hai loại theo
tiêu chuẩn dưới đây:
- Loại thứ nhất là các giáo lý công nhận đời sống ở thế gian
này là sự thật và tìm cách giải quyết các vấn đề của nhân loại ngay trong cõi đời
này.
- Loại thứ hai là các giáo lý phủ nhận đời sống ở thế gian
này, không tìm cách giải quyết các vấn đề của nhận loại trong đời sống ở thế
gian này và chỉ chú trọng đến đời sống ở thế giới bên kia.
Gia Tô Giáo và Hồi Giáo thuộc loại thứ nhất. Phật Giáo, Lão
Giáo và Ấn Độ Giáo thuộc loại thứ hai.
Ở đây không phải chỗ đê luận về tôn giáo nhưng để tìm hiểu ảnh
hưởng tôn giáo đến công cuộc Phát Triển Dân Tộc bằng cách Tây Phương Hóa.
Công nhận đời sống và phủ nhận đời sống.
Đời sống trên thể gian này, dù chúng ta có công nhận hay phủ
nhận, thì tự nó đã có. Đó là sự hiển nhiên. Và đối với chủ trương phủ nhận đời
sống, thì chính là vì có đời sống, nên mới có người trụ vào đó mà phủ nhận đời
sống. Như vậy thì, các giáo lý phủ nhận đời sống, đương nhiên đã ôm trong lòng,
ngay từ lúc đầu, một mâu thuẫn không bao giờ gỡ được. Các giáo lý công nhận đời
sống, không có cái mâu thuẫn đó.
Mâu thuẫn đó ảnh hưởng thực tế như thế nào?
Các giáo lý phủ nhận đời sống, đương nhiên, giảng dạy các
tín đồ không chú trọng về đời sống hiện tại, và chỉ tìm cách giải quyết các vấn
đề vật chất trong thế gian này, vừa đủ để nuôi sống, chờ đợi ngày sang thế giới
bên kia. Nhưng, mâu thuẫn nội bộ đã bộc lộ ra trong các giáo điều ấy, vì như thế,
thì các tín đồ sẽ sống mà không sống, hay sẽ không sống mà sống.
Các giáo lý công nhận đời sống, mặc dù không phủ nhận đời sống
bên kia thế giới, vẫn giảng dạy các tín đồ tìm cách giải quyết ngay các vấn đề
vật chất ở thế gian này, và sống cho đúng mức và sống cho đáng sống.
Do đó, các tín đồ của các giáo lý phủ nhận đời sống, sẽ có
xu hướng trốn tránh cuộc đời, từ chối cuộc chiến đấu để sống, và không sẵn sàng
đương đầu với các khó khăn khổ não của cuộc đời. Nghĩa là sẽ không muốn và cũng
không dám sống mạnh.
Ngược lại, các tín đồ của các giáo lý công nhận đời sống sẽ
có xu hướng tìm sống, công nhận cuộc chiến đấu để sống, và sẵn sàng đương đầu với
các sự khó khăn và khổ não của cuộc đời. Nghĩa là sẽ muốn sống mạnh và dám sống
mạnh.
Tôn giáo và Phát Triển Dân Tộc.
Và tôn giáo sẽ ảnh hưởng quan trọng đến công cuộc Phát Triển
Dân Tộc ở chỗ này. Một công cuộc Phát Triển Dân Tộc bằng cách lấy Tây Phương
Hóa là một công trình vĩ đại, và như chúng ta sẽ thấy, sẽ đòi hỏi ở toàn dân
nhiều nỗ lực phi thường, nhiều hy sinh lớn lao, và như vậy một cách liên tục và
trường kỳ. Như vậy, mặc dầu một công cuộc phát triển vĩ đại sẽ hấp dẫn đến tột
độ, đời sống đã là một cuộc chiến đấu tự nó đã gian lao, đặt vào khuôn khổ một
công cuộc Phát Triển Dân Tộc, đời sống sẽ gian lao hơn bội phần. Trừ một vài
hoàn cảnh rất đỗi thuận lợi và hiếm có, mà chúng ta sẽ xét ở một đoạn sau,
chúng ta có thể quả quyết rằng ít hay nhiều, công cuộc phát triển của Dân Tộc sẽ
diễn ra trong không khí khổ hạnh cho mọi người. Các trường hợp của Nga Sô và của
Nhật là những ví dụ rất hùng biện. Nếu may ra, hoàn cảnh của chúng ta tương tự
như hoàn cảnh của Nhật, thì không khí khắc khổ sẽ giảm đi, nhưng dầu thế nào, vẫn
có.
Trong những điều kiện như vậy, cố nhiên là tín đồ của các giáo lý, thuộc loại thứ nhất, sẵn sàng tham gia một công cuộc Phát Triển Dân Tộc, như chúng ta đã tả trên đây, hơn là tín đồ của các giáo lý thuộc loại thứ hai. Bởi vì những người trước để tâm đến đời sống hiện tại hơn, trong khi những người sau này, dù không phải nhận được đời sống hiện tại, vẫn không tích cực tìm cách giải quyết các vấn đề, liên quan đến đời sống ở thế gian này. Lúc gặp gian khổ, xu hướng tự nhiên của những người này là tránh phấn đấu, tìm cách yên phận cho qua cuộc đời tạm bợ. Trái lại, trong hoàn cảnh đó, xu hướng tự nhiên của những người trước là cố sức phấn đấu để tìm cách giải quyết các vấn đề ngay trong đời sống hiện tại.
Trong những điều kiện như vậy, cố nhiên là tín đồ của các giáo lý, thuộc loại thứ nhất, sẵn sàng tham gia một công cuộc Phát Triển Dân Tộc, như chúng ta đã tả trên đây, hơn là tín đồ của các giáo lý thuộc loại thứ hai. Bởi vì những người trước để tâm đến đời sống hiện tại hơn, trong khi những người sau này, dù không phải nhận được đời sống hiện tại, vẫn không tích cực tìm cách giải quyết các vấn đề, liên quan đến đời sống ở thế gian này. Lúc gặp gian khổ, xu hướng tự nhiên của những người này là tránh phấn đấu, tìm cách yên phận cho qua cuộc đời tạm bợ. Trái lại, trong hoàn cảnh đó, xu hướng tự nhiên của những người trước là cố sức phấn đấu để tìm cách giải quyết các vấn đề ngay trong đời sống hiện tại.
Những công cuộc Phát Triển Dân Tộc đã thành công có chứng
minh lý luận trên đây không? Nhật Bản đã thành công trong công việc Phát Triển
Dân Tộc, trong khi đó tôn giáo, của đa số quần chúng ở Nhật, là một môn phái của
Đạo Phật gọi là Đạo Thiền. Như vậy trường hợp của nước Nhật mới xem qua, không
xác nhận lý luận trên. Thật ra thì, mặc dù Đạo Thiền là một môn phái của Đạo Phật,
nhưng sau khi sang đất Nhật rồi, đụng với Dân Tộc tính của Nhật, giáo lý Nhà Phật
đã thay đổi một cách sâu xa đến nỗi, thuyết bất bạo động của Phật đã biến thành
tín ngưỡng của những nhà quí phái say máu của Nhật gọi là Samourai. Và giáo lý
phủ nhận đời sống của Phật đã biến thành giáo lý công nhận đời sống của Đạo Thiền.
Hơn nữa các nhà lãnh đạo Nhật Bản thời Minh Trị, chủ trương và hướng dẫn công
cuộc Tây Phương Hóa nước Nhật đã đưa Thần Đạo là lên hàng Quốc Đạo. Căn bản của
giáo lý Thần Đạo là tôn sùng tạo hóa dưới tất cả hình thức nghĩa là công nhận đời
sống hiện tại, một cách hùng biện.
Trường hợp thứ nhì của một công cuộc Tây Phương Hóa thành
công là Nga Sô. Như chúng ta đã biết nước Nga theo Gia Tô Giáo Đông Phái. Gia
Tô Đông Phái ở Hy Lạp và Tây Phái ở La Mã, đã phân ly với nhau, không phải vì
những nguyên nhân về giáo lý mà vì những điều thuộc về nghi lễ và sử dụng tượng
Thánh. Nghĩa là dân chúng Nga vẫn có tâm lý của những người tín đồ của một tôn
giáo công nhận đời sống hiện tại. Tuy nhiên, trong trường hợp của Nga, yếu tố
tôn giáo lại có một ảnh hưởng, không phải tích cực mà lại tiêu cực bởi vì
phương pháp áp dụng bởi các nhà lãnh đạo cộng sản là một phương pháp cưỡng bách
đến tột độ. Do đó mức độ tham gia, đòi hỏi ở dân chúng vượt xa khỏi mức độ sẵn sàng
tham gia của tín đồ một tôn giáo công nhận đời sống.
Trường hợp thứ ba là công cuộc Tây Phương Hóa có kết quả nửa
chừng của Thổ Nhĩ Kỳ. Nguyên do của sự kết quả nửa chừng này ở chỗ các nhà lãnh
đạo Thổ Nhĩ Kỳ không quan niệm đúng mức sự cần thiết phải làm cho công cuộc Tây
Phương Hóa ăn sâu và lan rộng vào quần chúng, hơn là ở chỗ tham gia thiếu hăng
hái của quần chúng, vì một lý do tôn giáo. Đáng lý ra, các tín đồ Hồi Giáo ở Thổ
Nhĩ Kỳ, theo đúng nhận xét trên đây, có thể đóng góp một sự tham gia tích cực
vào công cuộc Phát Triển Dân Tộc Thổ, nhưng cơ hội không đến với họ chỉ vì các
nhà lãnh đạo không nghĩ rằng sự tham gia của họ là thiết yếu.
Ngay đối với các Dân Tộc đang nỗ lực tìm phát triển, ảnh hưởng
tôn giáo đến công cuộc phát triển cũng có thê nhận thức được.
Công cuộc phát triển của Dân Tộc Ấn Độ chậm hơn công cuộc
phát triển của Dân Tộc Trung Hoa không phải chỉ vì Trung Hoa áp dụng biện pháp
cưỡng bách của khối cộng sản, trong khi Ấn Độ áp dụng biện pháp thuyết phục của
khối Tự Do.
Cho đến ngày cộng sản lên cầm quyền ở Trung Hoa, phản ứng tự
nhiên của mỗi người Tàu, trước mọi vấn đề liên quan với đời sống, đều ăn khớp với
luân lý Khổng Mạnh.
Và đã là luân lý thì đương nhiên công nhận đời sống hiện tại
và lý do sinh tồn của luân lý chính là để giải quyết các vấn đề của đời sống
ngay trong cõi thế gian này. Đa số dân chúng Ấn Độ theo Ấn Độ Giáo mà bản chất
là phủ nhận đời sống hiện tại. Vì thế cho nên chúng ta không nên lấy làm lạ mà
nhận xét ở dân chúng Ấn Độ một sự tham gia kém hăng hái vào công cuộc phát triển
của Dân Tộc hơn là dân chúng ở Trung Hoa. Giả sử mà hai khối dân chúng Ấn Độ và
Trung Hoa có ở vào ngoại cảnh chính trị giống nhau đi nữa, thì chắc chắn là vẫn
sẽ có sự khác nhau về thái độ nói trên trước công cuộc phát triển.
Nói rộng ra hơn nữa, chúng ta có thể nhìn vào bản đồ các tôn
giáo trên thế giới đính kèm theo quyển sách này mà tiên đoán Dân Tộc nào sẽ góp
một phần tích cực vào công cuộc phát triển và Dân Tộc nào sẽ tham gia một cách
khó khăn hơn khi, vì lẽ sống còn, các nhà lãnh đạo bắt buộc thực hiện công cuộc
Phát Triển Dân Tộc.
Trên đây, chúng ta đề cập đến ảnh hưởng của tôn giáo đến
công cuộc Phát Triển Dân Tộc, chỉ vì mỗi tôn giáo, đương nhiên, rèn đúc cho tín
đồ một tâm lý xã hội ăn nhịp với các khái niệm về vũ trụ và về đời sống của tôn
giáo đó. Các khái niệm về đời sống đó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người trước
những sự kiện của đời sống, đều thích hợp với các khái niệm trừu tượng ấy.
Ảnh hưởng mà chúng ta muốn nói trên kia đối với công cuộc
Phát Triển Dân Tộc chính là ảnh hưởng vô hình đó. Và chúng ta đã cố ý để ra
ngoài và không đề cập đến một thứ ảnh hưởng chính trị thiết thực của tôn giáo,
khi một giáo phái nào tự xem mình là một lực lượng quần chúng có thể dùng làm một
hậu thuẫn chính trị. Hay là khi một giáo phái nào, đã bị nhà đương quyền của một
quốc gia liệt vào hàng một nơi ẩn trú của những người chống đối lại với chủ
trương chính trị của họ. Trường hợp sau này là trường hợp của các quốc gia có một
chính thể độc tài như chính thể cộng sản.
Hai trường hợp trên đều là hai trường hợp bất thường của một
giáo phái đã tự ý hay bắt buộc đưa mình xuống một hình thức thấp hơn hình thức
tôn giáo một bậc. Và như thế sớm hay muộn tôn giáo sẽ trải qua một cơn khủng hoảng
vô cùng mãnh liệt.
PHÁT TRIỂN DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM
Nước Việt Nam, theo truyền thống văn hóa, nằm trong xã hội Trung Hoa và chịu ảnh hưởng văn hóa của Tàu. Về phương diện tôn giáo, Phật Giáo và Lão Giáo đã ăn sâu vào đại chúng. Nhưng, cũng như ở Trung Hoa, sự phủ nhận đời sống hiện tại của hai giáo lý này đã được luân lý xã hội của Khổng Mạnh quân bình. Nhờ đó mà có thể nói rằng quần chúng Việt Nam sẵn sàng tham gia một công cuộc Phát Triển Dân Tộc. Nếu có trở lực, thì chắc chắn trở lực không phải ở chỗ tiềm thức của Dân Tộc quá thiên về các giáo lý phủ nhận đời sống, nhưng mà ở chỗ xã hội chúng ta bị tan rã, nên các tín hiệu tập hợp không còn, dù là các tín hiệu tập hợp lấy trong giáo điều của luân lý Khổng Mạnh.
Sau thời kỳ Pháp thuộc, và sau một công cuộc Tây Phương Hóa
không có lãnh đạo, một thiểu số đáng kể đã theo Thiên Chúa Giáo. Theo sự kiện
phân tích trên đây thiểu số tín đồ Thiên Chúa Giáo, sẽ đóng góp một sự tham gia
tích cực vào công cuộc Phát Triển Dân Tộc. Bởi vì, trước hết, ảnh hưởng quân
bình của luân lý Khổng Mạnh đã chế bớt rất nhiều xu hướng trốn tránh cuộc đời của
những tín đồ Phật Giáo. Lẽ thứ hai là ngay trong Phật Giáo cũng có hai thái độ.
Thái độ xuất thế, để tìm sự cứu rỗi cho bản thân, không phải trong đời sống này
mà cho đời sồng bên kia thế giới. Thái độ nhập thế, để tìm cách cứu độ chúng
sanh ngay trong cõi đời này. Tuy nhiên suy nghiệm theo lời nguyện của các vị Bồ
Tát, hiện thân của thái độ nhập thế, thì mục đích của sự nhập thế này, không phải
làm để giúp cho chúng sanh giải quyết các vấn đề vật chất ngay trong đời sống
này, nhưng mà để độ chúng sanh khỏi kiếp luân hồi, nghĩa là để thoát khỏi cuộc
đời này. Như thế thì ngay trong thái độ nhập thế đã hàm một hậu ý xuất thế. Sự
kiện này làm bộc lộ một cách rõ rệt mâu thuẫn nội tâm, về đời sống, mà chúng ta
đã nói ở một đoạn trên. Nhưng dù sao thái độ nhập thế đã là một thái độ công nhận
đời sống hơn là thái độ xuất thế. Và do đó, trong công cuộc Phát Triển Dân Tộc,
thái độ nhập thế của các vị Bồ Tát sẽ thích hợp với nhu cầu quốc gia hơn. Nhưng
sự kém sống mạnh, có thể dẫn dắt đến một sự tham gia thiếu tích cực vào công cuộc
Phát Triển Dân Tộc, của các tín đồ Phật Giáo, vẫn nằm ở mâu thuẫn nguyên lai,
phủ nhận đời sống hiện tại, của giáo lý nhà Phật.
Hai cơ hội phát triển
Trong các giai đoạn trên chúng ta nhiều lần nói đến hai cơ hội
phát triển cho các quốc gia thuộc xã hội Đông Á.
Dưới đây chúng ta sẽ tìm xem:
* Như thế nào là một cơ hội phát triển.
* Và hoàn cảnh nào tạo ra cơ hội phát triển.
Xét lại lịch sử các cuộc Phát Triển Dân Tộc bằng cách Tây
Phương Hóa đã thành công như trường hợp của Nhật, của Nga, đã phân nửa thành
công như của Thổ Nhĩ Kỳ, sở dĩ các công cuộc đó thực hiện được là vì có một sự
đồng thời hiếm có của hai loại sự kiện. Loại thứ nhất, liên hệ đến tình trạng nội
bộ của mỗi quốc gia, có thể gọi là sự kiện chủ quan.
Loại thứ hai, liên hệ đến hoàn cảnh bên ngoài, do tình trạng
chính trị của thế giới lúc bấy giờ tạo ra, và có thể gọi là sự kiện khách quan.
Trong số các sự kiện chủ quan, các đoạn trên đây đã cho
chúng ta thấy rằng có hai sự kiện quan hệ nhất. Trước hết là sự có mặt, trong
những giờ phút nghiêm trọng, và tại các giềng mối của bộ máy quốc gia, của những
lãnh đạo, đủ sáng suốt, để nhận thức sự cần thiết của công cuộc Tây Phương Hóa
để Phát Triển Dân Tộc. Điều thứ hai là dân chúng có một tâm trạng sẵn sàng hưởng
ứng công cuộc Tây Phương Hóa do người lãnh đạo đề xướng.
Các điều kiện khách quan lại thuộc về một loại cụ thể hơn.
Như chúng ta đã thấy trên đây, công cuộc Tây Phương Hóa đòi hỏi rất nhiều kỹ
thuật, vì chính trọng tâm của công cuộc Tây Phương Hóa là hấp thụ những kỹ thuật
và khoa học Tây phương. Nhưng ngoài kỹ thuật ra, công cuộc Tây Phương Hóa còn
đòi hỏi rất nhiều vốn để xây dựng các kỹ nghệ căn bản làm cơ sở phát triển cho
các kỹ nghệ sản xuất, rất nhiều vốn để trang bị các cơ sở chính trị, quân sự,
văn hóa và xã hội, trong khi các lợi tức của quốc gia chưa thỏa mãn được nhu cầu
của Dân Tộc.
Kỹ thuật phải hoàn toàn ở ngoài đưa vào, đại đa số vốn phải ở
ngoài đưa vào. Điều kiện khách quan được thỏa mãn, khi nào tình hình chính trị
thế giới tạo một hoàn cảnh thuận tiện để cho kỹ thuật và vốn được đưa vào để
giúp cho công cuộc Tây Phương Hóa.
Như vậy thì, cơ hội đối với các nước đang tìm phát triển,
như chúng ta ngày nay, là khi nào hoàn cảnh bên ngoài, thuận tiện đế cho kỹ thuật
và vốn được đưa vào. Nắm được cơ hội hay không là do hai điều kiện nội bộ, như
trên vừa kể ra.
Cơ hội thứ nhất
Vào khoảng các năm 30 của Thế Kỷ 19, sự phát triển và bành
trướng của cường quốc Âu Châu đã lên đến một mức độ tối cao. Trong nội bộ, những
phát minh mới về khoa học và kỹ thuật đã tạo cho các quốc gia trong xã hội Tây
phương một sự tự tin dũng mãnh. Tín ngưỡng Gia Tô Giáo đã hướng dẫn công cuộc
chinh phục thế giới của văn minh Tây phương trong năm Thế Kỷ vừa qua. Sau đó,
nhiều phát minh của khoa học lại tạo cho xã hội Tây phương một sinh lực mới, có
phần dồi dào hơn sinh lực cũ do tín ngưỡng đã hun đúc trong nhiều Thế Kỷ. Trên
phương diện thực tế, những thực hiện kỹ nghệ và kỹ thuật đã đặt trong tay các
cường quốc Tây phương những khí giới chiến đấu có một sức mạnh chưa bao giờ thấy.
Dưới sự thúc đẩy của các sự kiện trên, và, sau khi củng cố địa
vị ở đại lục Ấn Độ và các Quần Đảo Nam Dương và Phi Luật Tân, bao vây các quốc
gia thuộc xã hội Đông Á, các cường quốc Tây phương bắt đầu tấn công ngay vào
các quốc gia này. Năm 1842 người Anh gây chiến tranh Nha Phiến ở Trung Hoa và mở
màn cho một cuộc tổng tấn công vào xã hội Đông Á. Sự dùng võ lực để mở Hải Cảng
Uraga của Nhật năm 1853 của Đại Tá Hải Quân Mỹ Perry và cuộc pháo kích Đà Nẵng
năm 1856 của chiến thuyền Catinat của Pháp đều là những sự kiện đồng thời và do
một nguyên nhân sanh ra.
Đứng trước mới nguy cơ chung, các quốc gia, thuộc xã hội
Đông Á, có những phản ứng tự vệ khác nhau, như chúng ta đã biết. Nguy cơ tuy lớn
lao thật, nhưng, đồng thời, lại là một cơ hội để Tây Phương Hóa, Phát Triển Dân
Tộc. Bởi vì, sự bành trướng mạnh mẽ của hai Đế quốc Anh và Pháp, vừa là một nguồn
mâu thuẫn giữa, một bên, hai đế quốc lớn, một bên, các quốc gia khác ở Tây
phương. Thêm vào đó, nước Mỹ, vừa chấn chỉnh xong nội bộ quốc gia, cũng bắt đầu
gấm ghé thực hiện ý định có mặt ở Thái Bình Dương.
Mâu thuẫn tạo cơ hội
Tất cả các mâu thuẫn chằng chịt đó là cơ hội cho các quốc
gia bị tấn công, để Tây Phương Hóa, Phát Triển Dân Tộc và bảo vệ chủ quyền của
mình. Những mâu thuẫn trên đã tạo ra một hoàn cảnh chính trị thế giới, làm cho
công cuộc xâm lăng, chiếm đóng thật sự trở thành một việc vô cùng khó khăn, và
vạn bất đắc dĩ. Nếu bây giờ, sự lãnh đạo quốc gia được phần nào sáng suốt và
hàng ngũ xã hội được bền chặt, thì, đương nhiên các mâu thuẫn trên đã trở thành
những đồng minh, giúp cho các nước bị tấn công, bảo tồn sự độc lập của mình.
Hơn thế nữa, các mâu thuẫn trên, nghĩa là sự tranh giành ảnh hưởng giữa các đế
quốc, sẽ mang lại kỹ thuật và vốn tư bản, để cho các nước bị tấn công thực hiện
công cuộc Phát Triển Dân Tộc của mình.
Cơ hội đã như vậy đó, nhưng, trong các quốc gia bị tấn công,
chỉ có Nhật Bản là có đủ điều kiện chủ quan để nắm cơ hội do các điều kiện
khách quan đưa đến. Sự thành công của các nhà lãnh đạo Nhật Bản như thế nào, tất
cả chúng ta đều biết.
Điều kiện chủ quan của quốc gia Trung Hoa, lúc bấy giờ,
không có, bởi vì, người cầm quyền lại thuộc một Dân Tộc ngoại lai, mà người
Trung Hoa oán ghét. Chẳng những thế, với thời gian, lịch sử còn chứng minh sự
thiếu sáng suốt của các nhà lãnh đạo Mãn Thanh lúc bấy giờ. Tuy nhiên, những
mâu thuẫn nội bộ giữa các cường quốc Tây phương cũng đã, đương nhiên, bảo vệ độc
lập, ít ra, trên danh từ, cho Trung Hoa và tránh cho quốc gia này một sự thống
trị trực tiếp như Việt Nam. Nhưng Trung Hoa cũng đã bỏ lỡ cơ hội thứ nhất để
phát triển.
Hoàn cảnh nội bộ của Việt Nam lại càng bi đát hơn nữa.
Sau một cuộc nội chiến, tàn khốc và tiêu hao, kéo dài từ năm 1620 đến năm 1802, Nhà Nguyễn vừa thống nhất quốc gia được bốn mươi năm, thì họa xâm lăng Tây phương lại ồ ạt kéo đến. Những điều kiện chủ quan, như trên đã trình bày, quốc gia Việt Nam hoàn toàn không có. Nhân tâm còn ly tán, chính trị của Nhà Nguyễn không thâu phục được lòng dân, nội loạn không lúc nào dứt. Các nhà lãnh đạo của chúng ta, lại không kịp thời nhận thức vấn đề của Dân Tộc, trong một giai đoạn quyết liệt. Các tài liệu lịch sử về sự lãnh đạo quốc gia, trong thời kỳ này còn giữ lại, không thấy đề cập đến vấn đề Tây Phương Hóa. Nhiều nhân vật có để lại những bản sớ, nói về tính cách cần thiết của sự thu thập kỹ thuật Tây phương, nhưng không thấy đề cập đến một công cuộc Tây Phương Hóa, như người Nhật quan niệm lúc bấy giờ. Chính những chương trình do ông Nguyễn Trường Tộ đề nghị mặc dù có những kiến thức rất tiến bộ và sáng suốt, cũng vẫn là một chủ trương cải cách nhút nhát. Nếu có mang ra mà thi hành, thì có lẽ, cũng chỉ dẫn dắt đến một cuộc Tây Phương Hóa thất bại mà thôi, vì điều kiện chủ quan hoàn toàn không rõ rệt và rất sơ sài.
Hơn nữa, các tài liệu lịch sử, trong giai đoạn quyết liệt
này, không thấy có ý thức gì về các mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương.
Trong khi đó, chính các mâu thuẫn này là lợi khí sắc bén nhất, trong cơ hội đưa
đến cho chúng ta. Vì thế cho nên, ví dầu mà chương trình của Nguyễn Trường Tộ
có đem ra thực hiện, thì tính cách ấu trĩ của thuật ngoại giao của chúng ta,
lúc bấy giờ, cũng không cho phép chúng ta thực hiện được công cuộc Phát Triển
Dân Tộc. Xem thế, chúng ta càng nhận thấy kiến thức hẹp hòi của các nhà lãnh đạo
lúc bấy giờ, và quan niệm chưa trưởng thành của họ về việc lãnh đạo quốc gia.
Các sự kiện trên càng làm bộc lộ rõ rệt quan niệm, Việt Nam
là một thuộc quốc đối với Trung Hoa, của các nhà lãnh đạo lúc bấy giờ. Sự thiếu
sót về ngoại giao trên đây, do một quan niệm thấp và hẹp về ý thức độc lập, là
nguyên nhân chính làm cho chúng ta không lợi dụng được các mâu thuẫn, giữa các
cường quốc Tây phương, để bảo vệ độc lập và chủ quyền cho Dân Tộc. Trong khi đó
Thái Lan, lúc bấy giờ là Xiêm, mặc dầu không thực hiện được cuộc Phát Triển Dân
Tộc nhưng ít ra, cũng cứu vãn được độc lập bằng cách khai thác các mâu thuẫn giữa
các cường quốc.
Cơ hội thứ nhất đã lỡ, hậu quả của sự lỡ cơ hội tai hại như
thế nào, Dân Tộc chúng ta đã ghi vào xương máu bài học kinh nghiệm đắt giá đó.
Nhưng, giá hết sức cao mà chúng ta đã phải trả, để mua kinh nghiệm lỡ cơ hội lần
thứ nhất, có đủ để làm cho các nhà lãnh đạo, đương thời của chúng ta, nhận thức
sự cần thiết phải vận dụng hết nô lực để nắm cho được cơ hội thứ hai, đang đến
với chúng ta, để Phát Triển Dân Tộc không?
Cơ hội thứ nhất đến ngay vào lúc những mâu thuẫn giữa các quốc
gia Tây phương đi vào một giai đoạn rất gây cấn.
Sự tranh giành ảnh hưởng đã đến một trình độ hết sức căng thẳng
giữa các đế quốc Anh, Pháp, Đức và Nga. Các yếu tố quân bình, trong khung cảnh
chính trị cổ truyền của Âu Châu, được mang áp dụng giữa các cường quốc đi chinh
phục. Hòa ước Bắc Kinh, ký kết năm 1861 giữa Trung Hoa và các cường quốc chiến
thắng, là một tài liệu thừa nhận sự phân chia nước Tàu làm nhiều vùng ảnh hưởng
giữa các đế quốc.
Nhưng, đồng thời và trước hết, đó là một tài liệu chứng tỏ sự
cạnh tranh quyết liệt giữa các cường quốc Tây phương.
Tuy nhiên, với sự biến chuyển của tình hình chính trị, các
mâu thuẫn có thể tạm thời dẹp một bên bằng những thỏa hiệp. Đối với các quốc
gia bị Tây phương tấn công, đó là lúc mà cơ hội mất. Riêng đối với Việt Nam thì
cơ hội đã mất, ngay khi chủ quyền đã mất.
Cơ hội thứ hai
Gần một Thế Kỷ sau, mâu thuẫn nội bộ giữa các cường quốc Tây
phương lại bộc phát lên một cách dữ dội và dẫn dắt đến hai cuộc thế giới chiến
tranh mà chúng ta đều biết.
Chiến tranh chưa chấm dứt, sự tranh chấp, giữa hai quốc gia
đã chiến thắng trong Trận Thế Chiến Thứ Hai, nay lãnh đạo hai khối chính trị
trên thế giới, đã tạo ra cho các quốc gia, bị Tây phương xâm chiếm một cơ hội
duy nhất để tranh giành độc lập và Phát Triển Dân Tộc. Sự tranh chấp giữa Nga
Sô và khối Tây phương ngày nay, là hiện trạng của một cuộc tranh đấu không ngừng
đã diễn ra từ hơn bốn trăm năm nay. Lúc gay cấn đến xảy ra chiến tranh, lúc ngấm
ngầm, khi bên này thắng, bên kia thua, cuộc tranh đấu không bao giờ ngừng vì những
lý do mà chúng ta đã tìm hiểu trong nhiều đoạn ở trên.
Sở dĩ mà ngày nay, cuộc tranh chấp trở thành vĩ đại và bao
trùm hết thế giới và mọi lĩnh vực của đời sống, là vì, như chúng ta đã thấy
trong các chương đầu của tập này, lúc mở màn cho giai đoạn hiện tại, vị trí của
hai bên như sau đây:
Tây phương, lúc bấy giờ, chiếm gần hết thế giới. Thuộc địa của
những đế quốc Tây phương nằm khắp năm đại lục.
Lực lượng quân sự của Tây phương đóng giữ các vị trí chiến
lược hiểm trở trên địa cầu. Chiến thuyền của Tây phương tung hoành, rẽ sóng bốn
biển. Lưới kinh tế của Tây phương bủa vây thế giới.
Đối với một địch thủ, nắm trong tay một lực lượng kinh khủng
như vậy, nếu Nga Sô tiếp tục chiến đấu theo quan niệm cổ truyền, và đóng khung
nỗ lực của mình trong giới hạn lãnh thổ Nga, thì chắc chắn đã nắm phần bại về mình,
ngay từ lúc chưa ra quân. Bởi vì, một chiến lược như thế có nghĩa là Nga Sô sẽ
bị Tây phương siết chết trong một vòng vây không lối thoát. Các nhà lãnh đạo
Nga Sô, ngay khi cách mạng tháng Mười ở Mạc Tư Khoa chưa bùng nổ, đã đủ sáng suốt
để nhận thức rằng, muốn tiếp tục công cuộc chiến đấu của Dân Tộc một cách thắng
lợi, điều kiện tiên quyết, là phải đưa chiến lược lên một lãnh vực bao trùm khắp
thế giới, bởi vì địch thủ đã áp dụng một chiến lược bao quát như vậy.
Ngày nay cuộc chiến đấu vĩ đại vượt lên cả không gian, và lâm le thâu gồm vào vòng chiến lược các hành tinh của Thái Dương Hệ, cũng vì lẽ, không một địch thủ nào muốn để cho bên kia bao vây mình.
Trở lại lúc đầu giai đoạn hiện tại của cuộc chiến đấu giữa
Nga Sô và Tây phương, sở dĩ Nga Sô, lúc bấy giờ, quan niệm và thực hiện được một
chiến lược minh mông, như nói trên, là nhờ ở những điều kiện dưới đây:
Mâu thuẫn nội bộ
Trước hết những mâu thuẫn nội bộ giữa các đế quốc Tây phương
lúc nào cũng có. Chính những mâu thuẫn này, trong những giai đoạn khủng hoảng,
đã gây ra hai cuộc thế giới chiến tranh vừa qua.
Thuyết Các-mác Lê-nin lúc nào cũng nhắc đến các mâu thuẫn
này và xem đó là đặc tính của xã hội tư bản. Và theo thuyết ấy, chính các mâu
thuẫn đó sẽ đưa xã hội tư bản đến chỗ chết. Nếu chúng ta đồng ý với thuyết
trên, về sự có mặt của các mâu thuẫn nội bộ nói đây trong xã hội tư bản, thì
chúng ta lại nên thêm rằng, những mâu thuẫn nội bộ tương tự sẽ có, không cứ gì
trong xã hội tư bản, mà, bất cứ trong xã hội nào gồm nhiều phần tử mà quyền lợi
bất đồng. Ngày nay, chúng ta đang mục kích nhiều mâu thuẫn nội bộ trong khối cộng
sản. Nhưng lý do, phát sinh những mâu thuẫn này, cũng tương tự và đương nhiên,
như những lý do, phát sinh những mâu thuẫn, đang nói trên kia, trong xã hội Tây
phương. Tuy nhiên, sự kiện, các mâu thuẫn này, có phải hay không phải là đặc
tính của xã hội tư bản, không quan hệ.
Điều quan hệ là sự có mặt của các mâu thuẫn ấy.
Nội tuyến
Điều kiện thứ hai là trong thời kỳ, cuối Thế Kỷ 18 sang đầu
Thế Kỷ 19, xã hội Tây phương trải qua một cuộc khủng hoảng vô cùng trầm trọng,
do chính các phát minh khoa học và kỹ nghệ gây ra. Các phát minh khoa học và kỹ
nghệ là những lực lượng sản xuất mới, đã được đưa vào và áp dụng, một cách quá
đột ngột, trong một xã hội chưa sẵn sàng để đón nó, vì các cơ cấu vẫn còn giữ một
lối tổ chức, theo nề nếp cũ, của một xã hội thủ công nghiệp. Bất cứ xã hội nào,
trong hoàn cảnh đó, cũng bị một cuộc khủng hoảng như vậy.
Sự kiện này đã mang đến sự ly khai giữa các quần chúng và
các nhà lãnh đạo trong xã hội Tây phương, vì những hậu quả mà chúng ta không cần
biết chi tiết ở đây, của các phát minh nói trên. Cuộc khủng hoảng trầm trọng đến
nỗi, tất cả tầng lớp xã hội đều bị ảnh hưởng của cuộc chấn động. Và nhiều nhà
triết học đã phải nghĩ đến một cuộc cải cách xã hội toàn diện, để cho các cơ cấu
ăn khớp với những lực lượng sản xuất mới. Trong số đó, Engels, và Karl Marx là
danh tiếng hơn cả. Như vậy, chúng ta thấy rõ rằng, lý thuyết Các-Mác, trước
tiên là một phương thuốc do một số người Tây phương đề nghị, để chữa bệnh cho
xã hội Tây phương, trong một cơn khủng hoảng.
Vì lý do nào mà thuyết ấy trở thành căn bản tư tưởng chiến đấu
của Nga Sô, một quốc gia đang dấn thân vào một cuộc chiến đấu sống chết với Tây
phương?
Trước hết các nhà lãnh đạo cộng sản nhận thức rằng tình trạng
của xã hội Tây phương, lúc bấy giờ, sẽ là tình trạng, có lẽ, dưới một hình thức
còn trầm trọng hơn, của xã hội họ, một khi, trong khuôn khổ công cuộc Tây
Phương Hóa mà họ đang chủ trương, họ sẽ đưa vào xã hội Nga Sô các lực lượng sản
xuất mới, vừa nói trên kia. Như thế thì, thái độ hợp lý không phải là thâu nhận
ngay, và trước cả Tây phương, những tư tưởng và phương pháp xây dựng một xã hội
thích hợp với các lực lượng sản xuất mới do khoa học phát minh sao? Bởi vì, như
thế, thì Nga sẽ chắc chắn đi trước và thắng Tây phương.
Trên đây là một lý do xây dựng cho xã hội Nga Sô.
Nhưng còn một lý do khác, thuộc lãnh vực chiến thuật, trong
cuộc chiến đấu với Tây phương. Lý do nào đã nặng hơn?
Điều đó khó mà biết được. Chỉ biết rằng cả hai lý do đều có,
nếu chúng ta nhận xét ở các diễn biến, tiếp theo sau, của cuộc chiến đấu.
Đang lúc xã hội Tây phương có sự rạn nứt giữa cấp lãnh đạo
và quần chúng, tạo ra một tình trạng thuận lợi để cho cách mạng bùng nổ, thì bất
cứ người nào chủ trương một lý thuyết, mang nhiều hứa hẹn tương lai cho đời sống
của quần chúng Tây phương, chắc chắn sẽ được quần chúng Tây phương hưởng ứng. Nếu
người chủ trương là Nga Sô thì, quần chúng Tây phương, một khi đã hưởng ứng, sẽ
biến thành một khối đồng minh vô giá, của Nga Sô ở ngay trong lòng kẻ địch của
họ. Thật là một mưu tính thâm và cao.
Do hai lý do vừa kể trên, thuyết cộng sản, một sản phẩm của
Tây phương, đã đương nhiên biến thành một lợi khí, trong tay của Nga Sô, để
đánh lại Tây phương trên hai mặt, trong và ngoài.
Thuyết cộng sản có thích nghi cho một xã hội kỹ nghệ hóa hay
không? Chúng ta khó trả lời câu hỏi này mà khỏi lọt vào một cuộc luận chiến trường
kỳ vô tận, cũng như mỗi khi chúng ta đặt cuộc tranh luận vào lĩnh vực triết lý.
Nhưng một điều mà chúng ta có thể làm được, với những thực tế của lịch sử làm
căn bản là xem xã hội Tây phương đã vượt qua những giai đoạn nào, sau khi đã từ
chối thuyết cộng sản.
Dầu sao, tính toán chiến thuật của các nhà lãnh đạo Nga Sô,
như trên đây đã trình bày, thật sự, đã mang đến cho họ, những kết quả ngoài sự
mong mỏi. Sau khi Nga Sô đã tuyên bố tự nhận mình là thành trì của thuyết
Các-mác, là quốc gia lãnh đạo cuộc cách mạng xây dựng xã hội cộng sản, tất cả
các đảng cộng sản, ở các quốc gia Tây phương, đương nhiên, biến thành những đồng
minh chiến đấu của Nga Sô.
Hơn thế nữa, quần chúng Tây phương, đang chống đối với các
thiểu số lãnh đạo của mình, cũng hướng về Nga Sô như hướng về một người giải
phóng. Do đó, nước Nga, với những vũ khí vật chất và trong thời kỳ cực thịnh của
họ về kỹ thuật, chưa bao giờ đã gây được trong xã hội Tây phương những chấn động
kinh khủng, như lúc bấy giờ, với một vũ khí tinh thần và trong một thời kỳ kém
hẳn Tây phương về kỹ thuật và khoa học.
Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Tây phương đã đủ già tay ấn để dẫn
dắt xã hội Tây phương vượt qua được các cơn sóng gió. Sự phát triển, vẫn hùng mạnh,
trong xã hội Tây phương hiện nay, chứng minh rằng xã hội này, đã vượt qua cơn
khủng hoảng và đã xây dựng được những cơ cấu xã hội thích nghi với các lực lượng
sản xuất mới, mà không cần phải áp dụng phương thuốc cộng sản. Như vậy, chúng
ta không cần phải thảo luận về tính cách, thích nghi hay không, của một xã hội
cộng sản đối với các lực lượng sản xuất kỹ nghệ và đối với một khoa học kỹ thuật
tiến bộ. Chúng ta chỉ cần nhận xét rằng, trong thực tế, đã có một hình thức xã
hội khác thích nghi, một cách hữu hiệu, với các lực lượng đó.
Và chính từ lúc Tây phương đã tìm được các phương thuốc xã hội,
khác hơn những phương thuốc cộng sản, để chữa cơn khủng hoảng nội bộ của mình,
thì, từ lúc đó, thuyết cộng sản đã thấy hấp lực của mình, ngày càng suy giảm đối
với quần chúng Tây phương. Đấy là nguyên do chính của sự khủng hoảng nội bộ của
các đảng cộng sản Tây phương hiện nay. Thuyết cộng sản không còn lý do tồn tại
nữa, trong một xã hội đã được lành mạnh hóa, và đã được cải tạo theo một chiều
hướng thích nghi với các lực lượng sản xuất đã gây ra cuộc khủng hoảng. Và ngày
nay, điều này rất đỗi quan hệ cho chúng ta, sự bang giao giữa Nga Sô và các cường
quốc Tây phương không còn đặt trên lĩnh vực lý thuyết nữa, như trước đây ba
mươi năm. Sự bang giao này chỉ là một sự bang giao thông thường đặt trên những
mâu thuẫn của các cường quốc với nhau.
Hợp tung
Bây giờ chúng ta đến điều kiện thứ ba đã giúp cho Nga Sô
thành công trong việc quan niệm và áp dụng một chiến lược thế giới để đương đầu
với khối Tây phương đang ngự trị hoàn cầu.
Chính vì Tây phương đã chiếm gần hết thế giới, nên khắp thế
giới, chỗ nào Tây phương cũng có kẻ thù. Vì thế cho nên, hợp tung tất cả kẻ thù
của Tây phương vào trong một mặt trận, bao phủ địa cầu sẽ tăng cường hiệu quả của
chiến lược của các nhà lãnh đạo Nga Sô. Một mặt khác, các lãnh tụ các quốc gia
bị xâm chiếm, sau nhiều năm chiến đấu vô hiệu quả, và nhiều phen thất bại đau đớn,
cũng đã lần lần nhận thấy rằng muốn chiến thắng một kẻ thù, mà nanh vuốt bao
trùm khắp thế giới, thì một cuộc chiến đấu, giới hạn trong khuôn khổ một quốc
gia, không làm sao đưa đến kết quả được Vì lý do này, mà lời kêu gọi Đồng Minh
của Nga Sô để chống kẻ thù chung, là Tây phương, được rất nhiều nhà lãnh đạo quốc
gia hưởng ứng, một cách thành thật và nồng nhiệt. Hầu hết các nhà lãnh đạo các
quốc gia bị Tây phương xâm chiếm đều qui tụ dưới lá cờ cộng sản của Nga Sô. Chỉ
có một số nhà lãnh đạo sáng suốt, đã soi thấu thâm ý chiến lược của Nga Sô, mới
từ chối lời kêu gọi đồng minh của Nga. Trong số này, có Gandhi và Nehru của Ấn
Độ.
Chúng ta vừa thấy, do đường ngõ nào, mà lý tưởng tranh đấu cộng
sản đã chuyển từ Nga Sô sang các quốc gia đã bị thuộc địa hóa, nhất là các thuộc
địa ở Á Châu. Bởi vì trong số các thuộc địa, các quốc gia này là những quốc gia
đã có một nền văn minh cổ truyền, một cơ cấu xã hội vững chãi, khả dĩ huy động
một sức đề kháng đáng kế, đối với Tây phương. Vì vậy mà cộng sản quốc tế đặc biệt
chú trọng đến Á Châu. Chúng ta cũng vừa thấy cơ thức, theo đó, lý tưởng tranh đấu
cộng sản, mà mục đích nguyên thủy là một cuộc cách mạng xã hội tại Tây phương,
để xây dựng một trật tự mới thích hợp với các lực lượng sản xuất do những phát
minh khoa học tạo ra, sang Nga, đã biến thành một lợi khí vừa để lũng đoạn nội
bộ Tây phương vừa để Phát Triển Dân Tộc, và sang Á Đông, biến thành một lợi khí
tranh đấu để giải phóng các Dân Tộc bị đế quốc thống trị. Khác với các tác phẩm
của Các-mác, các tác phẩm của Lê-nin đề cập nhiều đến các thuộc địa của đế quốc,
nhất là các thuộc địa Á Châu, vì những lý do trên đây.
Sự đồng minh giữa các nhà lãnh đạo Nga Sô và các nhà lãnh đạo
Á Đông, không vì sự khác biệt giữa hai mục đích, mỗi bên đang riêng theo đuổi,
mà kém chặt chẽ và kém hiệu quả. Bởi vì lý do phát sinh và tồn tại của sự liên
kết là chống Tây phương, kẻ thù chung.
Các nhà lãnh đạo Á Đông còn bị lôi cuốn vào cuộc đồng minh bởi
một lý do thứ hai. Lý thuyết Các-mác đem đến cho các nhà lãnh đạo này một kiểu
mẫu xã hội tiền chế mệnh danh là một xã hội thích nghi với lực lượng sản xuất mới
do khoa học đẻ ra. Chính vì lý do này, một phần mà các nhà lãnh đạo Nga Sô đã
thâu nhận một lý thuyết Tây phương làm một lý thuyết tranh đấu cho Dân Tộc Nga.
Trên kia chúng ta đã nêu câu hỏi: Kiểu mẫu xã hội tiền chế
đó có thật thích nghi với các lực lượng mới không? Và chúng ta đã từ chối không
trả lời, chỉ nhận xét rằng, trong thực tế, đã có một hình thức xã hội khác
thích nghi, một cách hiệu quả, với các lực lượng đó. Hình thức nào thích nghi
hơn? Còn lâu lắm các Sử Gia mới trả lời được. Chỉ biết rằng hình thức xã hội cộng
sản không thể giữ độc quyền tổ chức nhân loại. Và chỉ biết rằng hình thức xã hội
cộng sản chưa hoàn thành và còn trong thời kỳ mò mẫm xây dựng. Trái lại, hình
thức xã hội Tây phương cải tạo, đã thành hình và đang phát triển hùng mạnh.
Cũng trong phạm vi này, một nhận xét khác rất quan hệ cho
chúng ta vì nó làm cho vấn đề thêm sáng tỏ. Các quốc gia, đã và đang, tìm Phát
Triển Dân Tộc bằng cách Tây Phương Hóa, trong đó có cả Nga Sô và Trung Cộng, đều,
đã và đang nỗ lực thâu thập kỹ thuật Tây phương. Như thế thì, trong lĩnh vực kỹ
thuật tổ chức xã hội, cũng như trong tất cả mọi lĩnh vực kỹ thuật, nếu cần phải
học hỏi, thì đương nhiên là nên học hỏi trực tiếp với Tây phương, hơn là học hỏi
với những người, đã và đang, học hỏi với Tây phương. Như thế, ngoài sự từ chối
không làm học trò hạng nhì, chắc chắn chúng ta còn tránh được nhiều lỗi lầm của
người học trò hạng nhất, ví dụ như “cái nhảy vượt bậc” và “phong trào nhân dân
công xã” của các nhà lãnh đạo Trung Cộng.
Với thời gian qua, và nhờ ánh sáng của những sự kiện lịch sử
đã xảy ra, từ lúc mới chớm nở cuộc Đồng Minh, giữa Nga Sô và các quốc gia bị
thuộc địa hóa, đến ngày nay, chúng ta có thể có hai nhận xét căn bản, có ảnh hưởng
nhiều đến đường lối của Dân Tộc sau này.
Hai nhận xét
Trước hết, mục đích giải phóng Dân Tộc, và hoàn cảnh bi đát
của các phong trào kháng chiến quốc gia lúc bấy giờ, có thể để thuyết minh cho
sự liên kết với Nga Sô của các lãnh tụ Á Đông. Mạnh hơn nữa, chúng ta có thể quả
quyết rằng con đường liên kết với các lãnh tụ Nga Sô, lúc bấy giờ, là con đường
có nhiều bảo đảm trong giai đoạn tranh giành độc lập cho Dân Tộc. Nhưng, chúng
ta cũng không nên quên rằng, có nhiều nhà lãnh đạo, nhìn thấu thâm ý chiến lược
của Nga Sô, như Gandhi và Nehru, đã từ chối sự liên kết trên, nhưng vẫn đạt đến
kết quả giải phóng Dân Tộc của họ. Và một chủ trương đã đúng trong một giai đoạn,
không phải vì đó, mà sẽ đúng trong tất cả các giai đoạn. Nghĩa là, sau khi độc
lập đã khôi phục, Dân Tộc chuyển sang giai đoạn phát triển, bằng cách Tây
Phương Hóa toàn diện, chính sách cộng sản, nghĩa là đường lối và phương pháp cộng
sản có còn thích hợp không?
Nếu có những nước, như Nga Sô, đã thực hiện được công cuộc
phát triển bằng đường lối cộng sản, thì cũng có những nước, như Nhật Bản, thực
hiện được công cuộc phát triển, với một trình độ không kém, bằng một đường lối
không cộng sản. Chúng ta, sau này, sẽ bàn đến sự thích nghi hay không của đường
lối cộng sản trong giai đoạn Phát Triển Dân Tộc của chúng ta. Nay chỉ cần ghi
nhớ một điểm là, ít ra cũng có một đường lối khác để Phát Triển Dân Tộc, không
kém hiệu quả hơn đường lối cộng sản.
Có thể có người nói rằng, nếu Việt Nam không theo đường lối
cộng sản thì Trung Cộng đã không giúp cho phương tiện để chiến thắng ở Điện
Biên Phủ. Về sự viện trợ của ngoại quốc, chúng ta sẽ đề cập đến một cách chi tiết
dưới đây. Nay, giải đáp thắc mắc trên đây chúng ta có thể nói rằng thời kỳ Điện
Biên Phủ vẫn còn nằm trong giai đoạn tranh giành độc lập. Vả lại Trung Cộng
giúp khí giới, kỹ thuật và phương tiện cho Việt Nam chiến thắng vì Trung Cộng
thân Việt Nam hơn là bài Mỹ hay là bài Mỹ hơn thân Việt Nam? Và khi viện trợ
như vậy, Trung Cộng xem Việt Nam là một đồng chí cộng sản hay là một phần đất
cũ xưa kia, và nay sắp sửa được gồm thâu vào lãnh thổ của họ?
Nhận xét căn bản thứ hai là như sau đây.
Trong cuộc đồng minh giữa Nga Sô và các quốc gia Á Đông bị
Tây phương thống trị, Nga Sô theo đuổi trước hết và trên hết mục đích Phát Triển
Dân Tộc của mình. Trong khi đó các quốc gia Á Đông lại theo đuổi trước hết và
trên hết mục đích giải phóng Dân Tộc thoái khỏi ách đế quốc thực dân.
Sự khác biệt mục đích này đã đưa đến hai hậu quả đương
nhiên. Khi nào có những biến cố xảy ra cho các đảng cộng sản bạn, làm cho những
đảng này cần sự giúp đỡ sẽ không đến. Trường hợp này đã xảy ra rất nhiều lần,
và thái độ của Staline đối với đảng cộng sản Trung Hoa trong thời kỳ bỉ cực là
rõ rệt hơn cả. Bởi thế cho nên, mặc dầu có một cuộc liên minh, quốc tế và trên
lý tưởng, vì kẻ thù chung, nhưng quyền lợi của Dân Tộc là trên hết. Điều này
chúng ta nên khắc sâu vào tâm não.
Hậu quả thứ hai là, khi nào một bên đã đạt được mục đích rồi,
thời sự đồng minh không còn lý do tồn tại nữa, trừ ra nếu có những lý do chính
trị do hoàn cảnh đương thời tạo nên. Ngày nay, Nga đã đạt được mục đích Phát
Triển Dân Tộc, thì lý do của cuộc đồng minh, đối với Nga, đã giảm giá đi rất
nhiều. Nếu Nga còn thấy cần đồng minh nữa, thì cũng chỉ vì cuộc chiến đấu cổ
truyền với Tây phương vẫn tiếp tục, chớ không phải vì một lý tưởng. Ngày nào cuộc
tranh đấu này đi vào một thời kỳ êm dịu, như chúng ta sẽ thấy dưới đây, thì lý
do đồng minh, đối với Nga, sẽ không còn nữa.
Những sự kiện trên đây giải thích một phần rất lớn, vừa những
mâu thuẫn xảy ra giữa Nga và các đảng cộng sản Á Châu, vừa những sự xung đột giữa
Nga và Trung Cộng.
Như vậy là chúng ta đã xét qua ba điều kiện đã giúp cho Nga
Sô chuyển cuộc tranh đấu cổ truyền với Tây phương trong phạm vi quốc gia, thành
một cuộc tranh đấu vĩ đại, trong đó Nga Sô đã huy động được, vừa lớp người bất
mãn, trong nội bộ của Tây phương, vừa kẻ thù, khắp thế giới, của Tây phương để
nỗ lực đánh bại Tây phương.
Và Tây phương suýt bị đánh bại thật.
Nếu trong trận Đại Chiến Thứ Hai vừa qua, mà Nga Sô, vì một
lẽ gì, đứng được ngoài cuộc chiến tranh, thì ngày nay cuộc diện thế giới đã
chuyển theo một chiều khác vô cùng thắng lợi cho Nga Sô. Đại Chiến Thứ Hai cũng
như Đại Chiến Thứ Nhất, trước tiên, là cuộc chiến tranh, giữa các cường quốc
Tây phương, để thanh toán những mâu thuẫn nội bộ với nhau.
Lúc đầu của cuộc đại chiến, Nga Sô đã vận dụng nỗ lực để đứng
ngoài chiến trận. Đó là một thái độ khôn ngoan nhất, vì, nếu để hai phe, đồng
minh và trục, tiêu diệt lực lượng lẫn nhau đến kiệt quệ, thì sau đó, với lực lượng
nguyên vẹn của mình, Nga Sô sẽ nắm bá quyền Âu Châu và ngày nay Tây phương sẽ yếu
thế hơn nhiều.
Vì vậy mà, đứng về quan điểm Tây phương, theo đó, Nga là một
kẻ thù cổ truyền, sự tấn công, vào đất Nga của Đức Quốc Xã, là một hành động hợp
lý. Và phe đồng minh liên kết với Nga là một hành động phản lịch sử, chỉ do những
nhu cầu nhất thời về chính trị quyết định. Và chắc chắn là, sau này trong lịch
sử tranh đấu giữa Nga và Tây phương, hành động của Đức Quốc Xã sẽ được ghi nhớ
là một công trạng đối với Tây phương. Bởi vì chính là nhờ ở sự tấn công Nga,
làm cho Nga phải tiêu hao lực lượng nên sau khi chiến tranh chấm dứt, sự quân bình
giữa Tây phương và Nga mới còn được như ngày nay.
Đi sâu vào hơn một chút nữa, mặc dù Nga đã tiêu hao lực lượng
rất nhiều, áp lực của Nga có thể, đối với Tây phương, sau khi chiến tranh chấm
dút, còn mạnh mẽ hơn nhiều, nếu Tây phương chưa phát minh và chế ngự được
nguyên tử năng. Sự phát minh này đã đưa kỹ thuật của Tây phương lên một trình độ
vượt hẳn kỹ thuật của Nga Sô. Và chính vì sự chênh lệch đó mà Nga Sô đã phải giảm
hạ áp lực thật sự của mình đi rất nhiều. Chỉ sau đó nhiều năm, khi, nhờ sự đóng
góp kỹ thuật của Đức, Nga bắt kịp Tây phương về nguyên tử năng, thì lúc bấy giờ,
áp lực của Nga mới trở thành mạnh mẽ và đi đến thế quân bình ngày nay. Và nhờ
khoảng thời gian mấy năm đó, mà các cường quốc Tây Âu mới băng bó các vết
thương chiến tranh, hưng vượng lại được và phát triển theo một đà mới, như
chúng ta đã thấy ngày nay.
Cơ hội
Đối với các quốc gia bị Tây phương thống trị, các biến cố xảy
ra đã tạo nên một cơ hội hiếm có không ngờ. Giả sử mà mâu thuẫn nội bộ giữa các
quốc gia Tây phương không gay cấn đến nỗi xảy ra chiến tranh, thì Nga Sô sẽ
không lợi dụng cơ hội mà tăng cường ảnh hưởng của mình được. Đã như thế thì các
thuộc địa sẽ chưa được giải thoát. Giả sử mà chiến tranh có xảy ra thật, nhưng
các cường quốc Tây phương đều nhận thức, theo như Đức, rằng chính Nga mới là kẻ
thù chính tông và kịp thời, thỏa hiệp Đức, để quay tất cả lực lượng về đánh
Nga, như nhiều lần Đức đã đề nghị, thì kết quả cũng sẽ tương tự như trường hợp
trên.
Giả sử mà sau Đại Chiến Thứ Hai, các cường quốc Tây phương
chưa phát minh được nguyên tử năng, thì áp lực và ảnh hưởng của Nga đã lan tràn
khắp Tây Âu. Thế lực của Nga trên thế giới lấn át thế lực của Tây phương. Tây
phương sẽ thâu hẹp vòng kiểm soát của họ lại nơi khu vực Bắc Mỹ và một vài nơi
khác trên thế giới, như Úc Châu và Nam Phi, thì các thuộc địa sẽ rơi từ vòng thống
trị của Tây phương sang vòng thống trị của Nga Sô. Công cuộc giải thoát Dân Tộc
chưa chắc đã thực hiện được, công cuộc phát triển thì quả quyết là xa vời hơn nữa.
Đằng này, các biến cố đã thật sự xảy ra đều không nằm vào một
trong ba trường hợp trên. Nga không bị dồn vào một thế yêu quá, mà cũng không lấn
áp được địch thủ. Tây phương không chế ngự được địch thủ, nhưng cũng không bị địch
thủ chế ngự. Chính sự thể hai bên đồng sức và kình chống nhau đó đã tạo ra cho
chúng ta, nghĩa là cho các quốc gia bị thống trị, hoặc các quốc gia đang tìm
phát triển, cơ hội duy nhất từ một Thế Kỷ, để phục hồi độc lập và Phát Triển
Dân Tộc.
Vì cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương dừng vào một
giai đoạn quyết liệt, bên nào cũng nỗ lực tìm đồng minh, cho nên một mặt Tây
phương lần hồi trả độc lập lại cho các nước bị trị, giúp đỡ phương tiện phát
triển bằng Liên Hiệp Quốc, bằng kế hoạch Colombo, bằng viện trợ trực tiếp v.v…Một
mặt khác cũng với mục đích tìm đồng minh, Nga đã giúp đỡ các cuộc chiến tranh
giải phóng và cũng giúp đỡ phương tiện phát triển cho nhiều quốc gia.
Từ hai mươi năm nay, từ ngày Đại Chiến Thứ Hai chấm dút,
chính trị thế giới giữa hai khối, tự do và cộng sản, đều do các sự kiện trên
đây quyết định. Sự viện trợ cho các cường quốc Tây Âu theo kế hoạch Marshall sự
phục hưng Tây Đức và Nhật Bản, sự viện trợ cho các quốc gia vừa độc lập, tất cả
đều nằm trong một kế hoạch hoàn cầu của Tây phương để liên kết các đồng minh,
trong một chiến lược vĩ đại bao vây Nga Sô. Đối lại, sự giúp đỡ cho Trung Hoa
phát triển, sự viện trợ cho các quốc gia chống Mỹ như Cuba, tất cả đều nằm
trong một chiến lược hoàn cầu của Nga Sô để phá vòng vây. Cho đến các phát minh
về không gian cũng được dùng vào việc liên kết đồng minh trong cuộc chiến đấu
vĩ đại giữa Tây phương và Nga Sô.
Đối với các quốc gia, trước kia đã bị bán thuộc địa hóa, hay
bị thuộc địa hóa, các sự kiện trên thật không phải là một cơ hội hiếm có, vô
cùng quí báu hay sao? Tự nhiên độc lập được phục hồi và tự nhiên được viện trợ
để phát triển.
Cho đến ngày nay, bao nhiêu quốc gia đã nắm được cơ hội để
phát triển? Chúng ta chỉ thấy có Trung Hoa.
Việt Nam nắm được cơ hội chưa?
Việt Nam chúng ta trong hai mươi năm nay, chẳng những chưa lợi
dụng được mâu thuẫn nói trên đây, giữa Tây phương và Nga Sô, để Phát Triển Dân
Tộc, lại còn bị lọt vào cái vòng mâu thuẫn đó. Do đó, chẳng những chúng ta
không phát triển được, lại còn bị tiêu hao nhân lực và tài lực đến một mức độ rất
đáng lo ngại.
Nếu lần này, các nhà lãnh đạo Dân Tộc lại làm sẩy cơ hội thứ
hai này nữa, thì, dựa theo kinh nghiệm thất bại lần trước, chúng ta cũng có thể
đoán được hoàn cảnh nào đang chờ đợi Dân Tộc chúng ta. Và trách nhiệm thất bại,
mà thế hệ chúng ta phải mang, đối với các thế hệ sau này, sẽ vô bờ bến.
Một cơ hội hiếm có
như vậy, lại đã kéo dài trong hai mươi năm, mà chúng ta chưa nắm được. Các nhà
lãnh đạo Dân Tộc hiện nay, xem thế cũng phải lấy làm khiếp đảm và tự khiển
trách đến cực độ. Nếu chúng ta lại còn lỡ cơ hội nữa, thì các nhà lãnh đạo hiện
nay sẽ mang nặng, đối với Dân Tộc, một lỗi lầm không có gì tha thứ được.
Các nhà lãnh đạo,
phía Nam và phía Bắc, của chúng ta đã nhận thức tình trạng, vô cùng nguy ngập
và khẩn cấp cho chúng ta, như trên đây đã trình bày chưa? Nếu chúng ta, căn cứ
trên các biến cố xảy ra từ hai mươi năm nay, và nhất là từ mười năm nay, chúng
ta phải thú nhận rằng chưa có một triệu chứng gì bảo đảm cho chúng ta rằng,
nguy cơ đang đe dọa Dân Tộc đã được các nhà lãnh đạo, phía Nam và phía Bắc, ý
thức.
Chúng ta sống ở phía
Nam, nên trong hai mươi năm vừa qua, có mấy dịp nhận thấy rằng các nhà lãnh đạo,
liên tục kế tiếp nhau thọ lãnh trách nhiệm về vận mạng của quốc gia, chưa có
lúc nào tỏ ra nhìn thấy vấn đề căn bản mà Dân Tộc cần phải giải quyết trong
giai đoạn này. Đã không nhìn thấy vấn đề căn bản, thì cố nhiên là không nhìn thấy
tình trạng vô cùng nguy ngập đang đe dọa Dân Tộc.
Đối với các nhà lãnh
đạo phía Bắc, nghiên cứu các sáng tác về chính trị cũng như các hành động chính
trị của họ, chúng ta công nhận rằng, nhờ sự nghiệp nghiên cứu các thực tế lịch
sử của cộng sản quốc tế, vấn đề căn bản của Dân Tộc có thể đã được họ nhìn thấy
rõ hơn. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Nga Sô đã sử dụng thuyết cộng sản như là một
lợi khí để chiến đấu với Tây phương, như chúng ta đã nhận thức trong các trang
trên đây và chính Mao Trạch Đông đã viết câu sau đây về thuyết cộng sản.
“Sở dĩ chúng ta
nghiên cứu thuyết Các-Mác không phải vì luận điệu tốt đẹp của nó, cũng không phải
vì nó đựng một phép thần diệu để trừ ma quỉ. Nó không đẹp, nó cũng không thần
diệu. Nó chỉ ích lợi. Có nhiều người cho nó là thần dược trừ bá chứng. Chính những
người này đã xem thuyết Các-Mác là một giáo lý. Phải nói cho những người này hiểu
rằng giáo lý của họ không có ích lợi bằng phân bón. Phân bón còn làm giàu ruộng
đất, giáo lý không làm được việc đó”.
Nghĩa là các lãnh tụ
tối cao của khối cộng sản đều xem thuyết cộng sản là một phương tiện. Họ chế ngự
phương tiện tinh thần đó, do Tây phương phát minh ra cũng như những phương tiện
vật chất khác của Tây phương. Ngược lại, các sáng tác chính trị của các nhà
lãnh đạo phía Bắc, lại chứng tỏ rằng, những người lãnh đạo này còn đang say mê
thuyết cộng sản và đương nhiên tôn nó lên hàng một chân lý. Đưa một phương tiện
chiến đấu của người, lên làm một chân lý của mình, là mặc nhiên hạ mình xuống
thấp hơn một bậc đối với các lãnh tụ cộng sản quốc tế và tự biến mình thành một
thứ nô lệ trí thức để cho người sử dụng. Vì vậy cho nên, trong nhiều hành động
chính trị của các nhà lãnh đạo phía Bắc, lý thuyết cộng sản được để lên trên
quyền lợi của Dân Tộc, điều ấy chứng tỏ rằng, trong lĩnh vực ngoại giao giữa
các quốc gia, họ tin rằng một sự đồng minh về lý thuyết có thể đặt trên quyền lợi
của Dân Tộc.
Do các lý lẽ trên đây
chúng ta có thể quả quyết rằng các nhà lãnh đạo phía Bắc vẫn chưa nhận thức
nguy cơ đang đe dọa Dân Tộc và những ngày đen tối của chúng ta vẫn còn tiếp tục.
Cơ hội thứ hai đã mất
chưa?
Ngày nay chúng ta đã
lỡ cơ hội thứ hai để Phát Triển Dân Tộc chưa?
Như ta đã thấy cơ hội
nói trên được tạo ra do những mâu thuẫn phát sinh từ một cuộc tranh đấu giữa
Tây phương và Nga Sô. Vậy cơ hội sẽ mất trong hai trường hợp:
1.- Mâu thuẫn vẫn
còn, nhưng chiến lược hai bên đều thay đổi, cho nên sự liên kết đồng minh không
cần thiết nữa.
2.- Mâu thuẫn không
còn.
Trong cuộc tranh đấu
hiện nay giữa Tây phương và Nga Sô, Tây phương do Mỹ lãnh đạo về quân sự và
Anh, Mỹ lãnh đạo về đường lối.
Trên phương diện quân
sự, chiến lược của Mỹ không phải là một chiến lược tấn công, nhưng là một chiến
lược phản công kịp thời bằng võ khí nguyên tử, ngay vào các trung tâm chiến lược
của Nga Sô. Do đó, và bởi vì lúc đầu của giai đoạn hiện tại của cuộc tranh đấu,
tầm hoạt động của phi cơ, phi đạn đều có giới hạn cho nên Mỹ cần một số căn cứ
chiến lược bao quanh Nga Sô từ Âu sang Á. Đó cũng là nguyên nhân của công cuộc
Mỹ viện trợ các nước không phải là Tây phương. Nơi nào Mỹ đóng căn cứ là nơi đó
Mỹ viện trợ. Sau đó khi bộ máy viện trợ đã thành và chạy đều, nhiều sự kiện
chính trị hay kinh tế chiến lược khác cũng thành những lý do viện trợ.
Để phá vòng vây của Mỹ,
Nga cũng viện trợ cho các quốc gia đó, để cho sự cần thiết đối với Mỹ kém đi
thì các quốc gia liên hệ có thể từ chối không cho Mỹ đặt căn cứ trên lãnh thổ
mình. Đồng thời Nga Sô nỗ lực chế các loại phi đạn có tầm hoạt động xa để bắn tới
các trung tâm chiến lược của Mỹ.
Các quốc gia tốt số
đó, được hai bên ưu đãi và nếu ý thức được vấn đề căn bản của mình, thì dùng viện
trợ đó để Phát Triển Dân Tộc.
Vì Mỹ có căn cứ ở gần Nga Sô, mà Nga Sô không có căn cứ ở gần
Mỹ cho nên Nga Sô mới dồn hết nỗ lực kỹ thuật và kỹ nghệ của mình vào việc sáng
chế các phi đạn trường xạ trình liên lục địa và đã tiến bộ hơn Mỹ về điểm này.
Và, đương nhiên, tiến bộ hơn Mỹ về không gian phi hành, bởi vì ngành này phải
dùng loại phi đạn trường xạ trình. Mỹ ỷ lại vào các căn cứ đã có gần Nga Sô,
nên không chú trọng đến các phi đạn trường xạ trình.
Tuy nhiên bởi vì sự
tuyên truyền của Nga Sô, nên các căn cứ quân sự của Mỹ, ở các nơi trên thế giới,
gây ra nhiều thất bại về chính trị, ví dụ, như ở Nhật, khi Tổng Thống
Eisenhower sắp sửa sang viếng Đông Kinh năm 1960. Cân nhắc kỹ, cái lợi quân sự
không bù cái hại về chính trị, cho nên Mỹ lại xoay sang chiến lược thay thế các
căn cứ cố định trên đất liền, bằng những căn cứ phóng hỏa tiễn trung xạ trình,
lưu động: Các tiềm thủy đĩnh nguyên tử.
Trên phương diện quân
sự, sự thay đổi chiến lược này, có nghĩa như là Mỹ đã tăng gia được tầm hoạt động
của các phi đạn và không cần các căn cứ quân sự chung quanh Nga nữa.
Căn cứ không cần đặt,
thì viện trợ sẽ rút. Khi nào số tiềm thủy đĩnh nguyên tử của Mỹ lên đến số lượng
đủ dùng để thay thế các căn cứ trên lục địa, thì viện trợ Mỹ sẽ chấm dứt.
Và cơ hội phát triển
của các nước nghèo sẽ bớt đi nhiều.
Công cuộc rút này đã bắt đầu thi hành ở nhiều nơi. Tuy
nhiên, nếu trường hợp này xảy ra, mâu thuẫn Nga Sô-Tây phương vẫn còn, và các
nước nhỏ mặc dầu phát triển có khó khăn, nhưng vẫn còn có hy vọng phát triển và
độc lập không đến nỗi bị đe dọa.
Đường lối của Tây
phương, trong công cuộc chiến đấu với Nga Sô, do Anh, Mỹ lãnh đạo. Căn bản
chính yếu của đường lối này, càng ngày càng bộc lộ rõ rệt. Các nhà lãnh đạo Tây
phương nhận thức hai điều.
Trước hết lý do chính, vì đó mà Nga Sô đã dốc hết nhân lực
và lài lực của mình vào công cuộc chiến đấu vĩ đại với Tây phương, là ý chí của
Nga Sô để thực hiện công cuộc Phát Triển Dân Tộc.
Điều thứ hai là Nga Sô đã thực hiện được công cuộc Phát Triển
Dân Tộc và nay trở thành một cường quốc mà sức mạnh và năng lực đáng được kính
nể.
Đường lối của Tây
phương.
Tất cả đường lối của Tây phương trong cuộc chiến đấu với Nga
Sô đã được xây dựng từ trên hai nhận xét căn bản.
Như chúng ta đã thấy,
trong một giai đoạn trên đây bàn về nước Nga, nước Nga và Tây phương có một di
sản tinh thần chung: Đạo Gia Tô. Nhưng Tây phương theo Gia Tô Tây phái, Giáo chủ
ở tại La Mã, Nga Sô theo Gia Tô Đông phái, Giáo Chủ lúc đầu ở Hy Lạp. Và hai nền
văn minh Tây phương và Nga do đó có nhiều điểm giống nhau. Nhưng vì một sự kiện
lịch sử, mà chúng ta đã biết, di sản tinh thần chung, có thời kỳ, có hiệu lực
là một yếu tố liên hợp giữa hai bên, lại, có thời kỳ, có hiệu lực là một mầm
chia rẽ.
Mặc dù phải võ trang
đến cực độ và thủ thế với nhau từng hành động và từng lời nói, đường lối của
Tây phương hiện nay đối với Nga Sô là, kêu gọi đến tính cách liên hiệp của di sản
tinh thần chung, mục đích đưa Nga trở về với xã hội Tây phương và khối người
cùng một nền văn minh.
Tất cả nỗ lực ngoại
giao của Tây phương đều hướng về mục đích trên, từ những hành động nhỏ nhặt, của
từng cá nhân, đến những trao đổi văn hóa và những hiệp ước thương mại hay quân
sự, giữa Nga Sô và các quốc gia Tây phương.
Ví dụ, không phải
tình cờ mà người Anh đặt tên cho vệ tinh đầu tiên sắp bắn lên quĩ đạo là
“Britnik”. Nhưng mà là cố ý tỏ lòng thán phục những vệ tinh “Spoutnik” của Nga.
“Brit” là British (của người Anh), “nik” để nhắc rằng những vệ tinh của loài
người bắn lên không gian trước hết là của Nga Sô. Ngụ ý của sự lựa chọn trên,
là để thỏa mãn lòng tự ái của Nga Sô lâu nay vẫn bị Tây phương xem là thấp kém,
và nhắc nhở Nga Sô rằng Nga Sô và Tây phương đều cùng chung một nền văn minh.
Không phải tình cờ mà
ông Paul Reynaud cựu Thủ Tướng Pháp, trong cuộc thăm viếng nước Nga đã long trọng
tuyên bố với Thủ Tướng Krutchev: “Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu,
trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu Châu”.
Những sự hoan nghinh và tiếp rước nồng hậu các phi hành gia
Nga, ở các kinh đô Tây phương, cũng hàm cùng một ý nghĩa. Những sự trao đổi về
văn hóa và khoa học, trong hội nghị quốc tế, hay những cuộc viếng thăm của những
phái đoàn văn nghệ của hai bên đều là những hành động có tính toán, chuẩn bị dư
luận của hai bên, để dẫn dắt lần lần quần chúng của hai bên đến chỗ thông cảm với
nhau.
Báo chí Tây phương
không ngớt ca ngợi những thành tích khoa học và xã hội của Nga Sô và luôn luôn
nhắc nhở đến những thời kỳ mà sự liên lạc giữa các nước Nga và Tây phương rất
là thân hữu. Tất cả các hành động trên, trong tất cả các lĩnh vực, đều dọn đường
để cho Nga Sô trở về với xã hội Tây phương.
Cuối cùng và quan hệ
hơn hết, là những nỗ lực để phát huy di sản tinh thần chung. Sau khi đã ly khai
với nhau trong nhiều Thế Kỷ, Giáo Chủ Gia Tô Tây phái ở Roma là Giáo Hoàng
Gioan XXIII đã mời và tiếp kiến các vị Giáo Chủ Tin Lành và các vị Giáo Chủ Gia
Tô Đông Phái. Các báo chí Tây phương đều hết sức hoan nghinh những cuộc tiếp
xúc trên, để chuẩn bị cho công cuộc thống nhất Gia Tô Giáo.
Sự tổ chức Công Đồng
Vatican I tiếp tục chính sách trên và thích hợp với một đường lối chính trị của
Tây phương. Vì vậy cho nên, sau khi Gioan XXIII đã từ trần, thì dĩ nhiên Phao
Lô VI sẽ tiếp tục chính sách trên và tổ chức Công Đồng Vatican II, trong đó,
các Giáo Chủ các phái Gia Tô, ngoài Tây phái, đều được mời tham dự với tư cách
là quan sát viên.
Xem thế, chúng ta nhận
thấy một cách rõ rệt, xuyên qua không khí phức tạp và rối rắm, của sự bang giao
giữa hai khối, những nét chính yếu của đường lối Tây phương đối với Nga Sô.
CHỈNH ĐỐN NỘI BỘ
Đồng thời với sự thi
hành đường lối nói trên với Nga Sô, và cũng để làm hậu thuẫn cho đường lối ấy,
Tây phương đang vận dụng nỗ lực của mình để chinh đốn lại nội bộ xã hội Tây
phương.
Các cường quốc Tây Âu
ngày nay trải qua một giai đoạn, có nhiều điểm tương đồng với thời đại Chiến Quốc
bên Tàu và thời kỳ các đô thị quốc gia của Cổ Hy Lạp hay là thời kỳ các đô thị
quốc gia của Ý vào các Thế Kỷ X đến XIV.
Đại khái, các đô thị
quốc gia Cổ Hy Lạp ngày xưa cũng là nơi đã phát sinh một nền văn minh sáng lạng
và cường thịnh. Người Hy Lạp cũng đã vượt sóng chinh phục các Dân Tộc ở khắp
ven biển Địa Trung Hải. Hạt giống văn minh do họ gieo rắc, đã nảy mầm nhiều
nơi, và ở những nơi này, nhiều quốc gia nhờ dân đông và đất rộng đã phát triển
mạnh bạo, trở thành những lực lượng hùng hậu lấn áp cả uy thế của mẫu quốc.
Và nhiều quốc gia mới đã trở lại chinh phục các đô thị quốc
gia Hy Lạp. Lúc đó các đô thị quốc gia này đã phải sụp đổ vì không thắng nổi những
sự tranh chấp cổ truyền để thống nhất lực lượng, chống xâm lăng.
Ngày nay, các cường
quốc Tây Âu cũng vậy. Đó là nơi phát sinh nền văn minh Tây phương đã chinh phục
thế giới.
Hạt giống văn minh của
họ đã nảy mầm khắp nơi trên địa cầu ở nhiều nơi này, nhờ dân đông và đất rộng,
nhiều quốc gia đã phát triển mạnh bạo trở thành những lực lượng đe dọa cả các
cường quốc Tây âu. Ví dụ Nga Sô hay Mỹ.
Rút kinh nghiệm thất
bại của các đô thị quốc gia Cổ Hy Lạp, các nhà lãnh đạo Tây Âu đang huy động hết
nỗ lực của mình để thực hiện, sự thống nhất Âu Châu. Những hiệp ước quan thuế
sáu nước, hiệp ước quan thuế bảy nước, và, ngay đến Thị Trường Cộng Đồng Âu
Châu đều là những thực hiện đầu tiên và cụ thể của những cố gắng nói trên.
Sau khi, vì mâu thuẫn
nội bộ mà suýt bị đánh bại, và vì mâu thuẫn với Nga Sô mà mất hết các thuộc địa,
trước kia là nguồn cung cấp thiên sản cho họ, các cường quốc Tây Âu nhận thức rằng
con đường sống duy nhất của họ là thanh toán các mâu thuẫn nói trên. Và chính
đó là điều mà họ đang làm.
Đối với chúng ta, các quốc gia đã bị đế quốc thống trị, các
mâu thuẫn trên đã tạo cho chúng ta cơ hội ngày nay.
Vậy thì, ngày nào,
các cường quốc Tây Âu và Tây phương, thành công trong dự tính của họ, các mâu
thuẫn trên không còn nữa, và cơ hội của chúng ta cũng sẽ mất. Vậy câu hỏi là:
Các cường quốc Tây phương đã thành công chưa?
Trong công việc thanh
toán mâu thuẫn nội bộ, có nhiều triệu chứng chỉ rằng họ có thể thành công và
đang thành công. Triệu chứng quan trọng nhất là ý thức, ngày càng rõ rệt, của
quần chúng Âu Châu đối với quan niệm “Âu Châu quốc gia chung”. Trên phương diện
này, những hành động, có đượm tính cách di hận cá nhân của Tướng De Gaulle đối
với các nhà lãnh đạo Anh, Mỹ, thành ra một trở lực cho công cuộc thanh toán mâu
thuẫn nội bộ Âu Châu. Vì vậy, mà chúng là có thể đoán rằng Tướng De Gaulle còn
sống, uy tín cá nhân của De Gaulle sẽ che chở cho chính sách của mình, nhưng lần
hồi nước Pháp sẽ bị cô lập. Tướng De Gaulle chết đi công cuộc thanh toán các
mâu thuẫn nội bộ của Âu Châu sẽ tiến hành dễ dàng hơn.
Đối với chúng ta, những
mâu thuẫn nội bộ, giữa các cường quốc Tây phương, ngày nay, không còn quan hệ
như những mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương nữa. Bất quá đó chỉ là những mâu
thuẫn có thể dùng được trong công cuộc ngoại giao thông thường.
Vậy, Tây phương đã
thành công trong công việc thanh toán mâu thuẫn giữa Nga và Tây phương chưa? Cố
gắng của Tây phương trong công việc thanh toán mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây
phương, vừa nhằm mục đích tránh cho nhân loại một chiến tranh nguyên tử thảm khốc,
vừa nhằm mục đích cứu thoát văn minh Tây phương khỏi một sự tiêu diệt chắc chắn,
nếu một cuộc chiến tranh nguyên tử bùng nổ giữa Nga Sô và Tây phương.
Thái độ của Nga Sô
Nga Sô, ngày nay, đứng
trước hai lời kêu gọi. Một bên, lời kêu gọi của Tây phương là lời kêu gọi của
gia đình những người cùng một văn minh và cùng một di sản tinh thần. Một bên,
là lời kêu gọi của gia đình những người cùng một lý tưởng cộng sản.
Chính trị thượng từng
của thế giới ngày nay, sẽ được qui định bởi thái độ của Nga Sô trước hai lời
kêu gọi trên. Ở vào một trình độ phát triển, như trình độ của Nga Sô ngày nay,
Nga Sô có thể đáp lời kêu gọi của Tây phương. Nhưng ký ức cuộc tranh đấu gay go
với Tây phương, trong suốt mấy Thế Kỷ, cũng chưa có thể sớm chiều phai mờ trong
trí các nhà lãnh đạo Nga Sô.
Nga Sô có thể đáp lại
lời kêu gọi của gia đình các đồng chí lý tưởng cộng sản. Nhưng các nhà lãnh đạo
Nga Sô, cũng thừa hiểu rằng lý tưởng cộng sản làm một phương tiện tranh đấu, đã
giúp cho Nga Sô thực hiện cuộc Phát Triển Dân Tộc và chỉ còn giá trị khi còn một
ích lợi nào cho cuộc tranh đấu giữa Nga Sô và Tây phương. Mà cuộc tranh đấu của
Nga Sô đôi với Tây phương ngày nay không còn như xưa nữa. Lý
tưởng cộng sản hết còn là một lợi khí sắc bén trong lòng địch
Tây phương nữa, bởi vì Tây phương đã tìm được những phương thuốc có khả năng loại
lý tưởng cộng sản ra ngoài xã hội của họ.
Vậy Nga Sô sẽ ngả về bên nào? Khó mà biết được.
Nhưng có lẽ thái độ
chính trị thiết thực nhất, là Nga Sô sẽ tùy theo hoàn cảnh thực tế, mà có lúc
ngả bên này và có lúc ngả bên kia. Có điều chắc chăn là lý tưởng cộng sản đối với
Nga Sô đã giảm giá trị đi rất nhiều. Vì lý do này, và vì lý do Nga Sô có lúc tỏ
ra thiên về Tây phương, cho nên mới gây nhiều sự tranh luận lý thuyết với Trung
Cộng.
Nhưng trong giai đoạn
này, Nga Sô đang ngả về đâu?
Thuyết sống chung hòa
bình của Nga có thể là một kế hoạch ru ngủ đối với Tây phương, nhưng chắc hơn
là Nga Sô cũng trông thấy sự tai hại của một cuộc chiến tranh nguyên tử đối với
nhân loại, và nhất là đối với văn minh Tây phương. Và chủ trương sống chung hòa
bình, đương nhiên, đồng ý với Tây phương để cứu thoát văn minh Tây phương khỏi
họa tiêu diệt. Và gần đây, thái độ của quần chúng Nga Sô, đối với các phái đoàn
văn hóa Tây phương, tỏ ra nhiều cảm tình, đó là một triệu chứng Nga Sô thiên về
Tây phương.
Một triệu chứng khác
về sự Nga Sô hiện nay có lẽ đang thiên về Tây phương là phản ứng vô cùng mạnh bạo
của Trung Cộng đối với thái độ dung hòa của Nga Sô. Trung Cộng đang ở vào một
tình trạng, tương tự như của chúng ta, nghĩa là của một quốc gia vừa độc lập và
đang tìm phát triển.
Trung Cộng cũng đang
cần có sự mâu thuẫn giữa Nga và Tây phương để phát triển. Chỉ khác với chúng ta
một điều là khối người của Trung Cộng là một yếu tố vô cùng quan trọng, có thể
dùng đó mà làm lệch cán cân chính trị thế giới.
Vì vậy cho nên Trung
Cộng ảnh hưởng được đến sự bang giao giữa Nga Sô và Tây phương. Nhưng cũng vì số
người to tát này mà công cuộc phát triển của Trung Cộng vô cùng khó khăn. Khi
nhìn thấy Tây phương đang tìm cách thanh toán các mâu thuẫn giữa mình và Nga
Sô, và xem chiều Nga Sô muốn thiên về Tây phương, thì Trung Cộng, lấy tư cách
là một phần tử quan trọng trong gia đình lý tưởng cộng sản, phản đối rất gay gắt.
Chắc chắn rằng các nhà lãnh đạo Trung Cộng hiện nay rất lo âu về việc mâu thuẫn
giữa Nga và Tây phương có thể hết trong khi công cuộc phát triển của Trung Cộng
chưa hoàn thành.
Dầu sao, nếu chưa mất
hết hẳn, thì mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương đã giảm đi nhiều. Và đồng thời
cũng giảm đi cơ hội phát triển cho chúng ta, nếu chúng ta không sớm tỉnh ngộ để
nắm lấy dịp mà Phát Triển Dân Tộc. Kinh nghiệm thất bại lần trước đủ cho chúng
ta thấy hoàn cảnh bi đát mà chúng ta sẽ lọt vào kỳ này, nhất là nếu kỳ này người
láng giềng khổng lồ của chúng ta phát triển được Dân Tộc của họ.
Tuy nhiên, trong một
thế giới gồm nhiều cường quốc như thế giới hiện tại, nếu loại mâu thuẫn này chấm
dứt, thì thế nào giữa các cường quốc cũng nảy sinh ra những loại mâu thuẫn
khác. Sự sinh tồn của các quốc gia nhỏ bé như quốc gia chúng ta căn cứ trên sự
khai thác đúng mức các loại mâu thuẫn. Vì vậy cho nên, miễn là thiểu số lãnh đạo
xứng danh của chúng ta còn, là chúng ta còn cơ hội phát triển. Cơ hội phát triển
của chúng ta khác với cơ hội phát triển của các khối lớn, như Trung Hoa hay Ấn
Độ, là ở chỗ đó.
Trong các đoạn trên
đây chúng ta đã cố gắng tìm hiểu công cuộc mà Dân Tộc chúng ta cần phải thực hiện,
trong giai đoạn này, để bảo vệ độc lập và mưu hạnh phúc cho toàn dân.
Công việc đã nhìn thấy,
hoàn cảnh bên ngoài có thuận tiện, vậy thực hiện được hay không còn phụ thuộc
điều kiện nội bộ của chúng ta. Trong phần sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu những
điều kiện nội bộ nói trên.
(Tiếp Phần IIIa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét