Việt Nam không có bà
Feinstein
Ngô Nhân Dụng
Tuần trước, bà Dianne
Feinstein, một nghị sĩ Dân Chủ tiểu bang California mới công bố một bản phúc
trình hàng ngàn trang tố giác Cơ Quan Tình Báo Trung Ương (CIA) đã tra tấn những
người tình nghi thuộc tổ chức khủng bố al-Qaeda, trái với luật pháp nước Mỹ. Bản
phúc trình cũng nói CIA không báo cáo đầy đủ cho chính phủ và Quốc Hội Mỹ về việc
tra tấn; và cho rằng phương pháp tra tấn không đạt được mục đích tìm ra tin tức
hữu ích trong công tác chống khủng bố. Bản phúc trình của Ủy Ban Tình Báo trong
Thượng Viện Mỹ không đưa ra một khuyến nghị cụ thể nào, ngoài các quy tắc chung
chung.
Cuộc tranh luận về vấn
đề này đang sôi nổi, không riêng trong nước Mỹ mà còn ở khắp thế giới. Ba vị cựu
giám đốc CIA và ba phó giám đốc đã viết chung một bài trả lời bản phúc trình
Feinstein. Họ cho biết CIA đã báo cáo 30 lần với Quốc Hội Mỹ về các hoạt động
này, mà họ gọi là “chương trình hỏi cung” với “biện pháp mạnh” (the enhanced
measures).
Trước hết, “chương
trình hỏi cung” của CIA có hiệu quả, đặc biệt đối với hai cán bộ al-Qaeda cao cấp
được bản phúc trình nói đến nhiều lần là Abu Zubaydah và Khalid Sheikh
Muhammed, gọi tắt là KSM. Các cuộc hỏi cung được bản phúc trình Feinstein mô tả
rất kỹ đã giúp chính quyền Mỹ ngăn chặn được những vụ khủng bố lúc còn đang được
al-Qaeda hoạch định ở Mỹ và khắp thế giới, có thể đã cứu sống hàng ngàn người Mỹ
và người nước khác. Ngoài ra, vụ tìm ra và hạ sát Osma bin Laden cũng đều nhờ
các tin tức lấy được trong các “chương trình hỏi cung” tương tự, nhất là việc
xác định tung tích “người đưa thư” của bin Laden, nhờ thế tìm ra nơi ông ta trú
ẩn. Nhờ công tác hỏi cung của CIA mà nước Mỹ không bị khủng bố tấn công trong
13 năm qua.
Kể từ năm 2002, CIA
đã báo cáo với Bộ Tư Pháp Mỹ và xin ý kiến bốn lần. CIA đã hai lần ngưng các vụ
hỏi cung “mạnh tay” trong thời gian Bộ Tư Pháp điều tra. Nhân viên CIA đã đưa
trình Bộ Tư Pháp 20 trường hợp để xin ý kiến. Bộ Tư Pháp chỉ thấy một vụ phạm
luật, không liên can đến “chương trình hỏi cung” đang bàn cãi; sau đó nhân viên
vi phạm đã bị bỏ tù. Bộ trưởng Tư Pháp đương nhiệm trong chính phủ Obama sau một
cuộc điều tra vào năm 2012 đã kết luận rằng công việc hỏi cung của CIA có tính
chất chuyên nghiệp, rốt ráo và không vi phạm một lỗi lầm nào đáng bị truy tố.
CIA cũng báo cáo với Quốc Hội Mỹ 30 lần và mỗi lần đều không đại biểu nào phản
đối.
Các vị cựu lãnh đạo
CIA cũng nhấn mạnh đến thời gian tính của việc dùng các “biện pháp mạnh” kể từ
năm 2002, khi mới bắt được Abu Zubaydah. CIA đã phúc trình với các đại biểu Quốc
Hội trong các ủy ban tình báo như các nghị sĩ Bob Graham, Richard Shelby, và
các dân biểu Nancy Pelosi, Porter Goss. Lúc đó cả nước Mỹ đang lên cơn sốt sau
vụ tàn sát 9/11 cho nên không ai phản đối khi CIA trình bày chi tiết về các
mánh khóe lảng tránh của Zubaydah cũng như các kỹ thuật hỏi cung được áp dụng để
lấy thêm tin tức. Họ kết luận rằng bây giờ Ủy Ban Tình Báo Thượng Viện đã thay
đổi thái độ vì gió đã đổi chiều, mối lo sợ của dân Mỹ không còn căng thẳng như
những năm trước nữa. Tóm lại, việc công bố bản phúc trình Feinstein là do động
cơ chính trị. Một hậu quả là nhân viên CIA từ này sẽ lo lắng hơn trong khi thừa
hành nhiệm vụ, và cơ quan tình báo của các nước đồng minh với Mỹ sẽ bớt tin tưởng
vào việc hợp tác với CIA. Theo bản phúc trình năm 2013 của một tổ chức quốc tế,
Cơ Quan Xã Hội Mở (Open Society Foundations), thì có 54 quốc gia đã cộng tác với
CIA trong chương trình đặc biệt tìm bắt khủng bố, trong đó có 11 nước quanh
vùng Trung Ðông (Algeria, Egypt, Iran, Iraq, Jordan, Morocco, Saudi Arabia,
Syria, Turkey, United Arab Emirates và Yemen).
Người dân Mỹ sẽ phán
xét ai có lý, ai hành động vì công ích, trong việc công bố bản phúc trình này.
Nhiều người Mỹ có thể hổ thẹn nhưng họ cũng nên hãnh diện khi cuộc tranh luận về
CIA diễn ra và phơi bày trước công luận toàn thế giới.
Trước hết, hiện tượng
này cho thấy quyền giám sát của người dân đối với chính phủ, áp dụng trên tất cả
các cơ quan công quyền. Bà Feinstein có thể hành động vì lý do chính trị. Bà ngồi
trên nội dung bản phúc trình này bấy nhiêu năm, nay đem ra công bố vì từ Tháng
Giêng năm 2015 bà sẽ không còn giữ địa vị quan trọng trong Ủy Ban Tình Báo của
Thượng Viện nữa, khi các nghị sĩ đảng Cộng Hòa chiếm đa số nhậm chức. Ðây là một
cơ hội để bà “lấy điểm” trước các cử tri vẫn ủng hộ mình. Nhưng bà cũng làm một
công tác hiến định; nước Mỹ phải có những đại biểu Quốc Hội dám chỉ trích việc
làm của các cơ quan trong nhà nước. Hành động của bà thể hiện một quyền thiêng
liêng của các công dân Hợp Chúng Quốc: Quyền được biết các cơ quan nhà nước làm
việc như thế nào; quyền giám sát và phê phán guồng máy nhà nước được họ ủy nhiệm
làm công việc cai trị. Quyền giám sát đó cho phép các công dân, khi bầu chọn một
chính quyền lên trị nhậm trong hai năm, sáu năm hoặc bốn năm, bắt những người nắm
quyền phải chịu trách nhiệm về mọi hành động của guồng máy cai trị. Hệ thống
chính trị này dựa trên các định chế dân chủ, trong đó có tinh thần tôn trọng luật
pháp, tự do ngôn luận, tư pháp độc lập, quyền phản kháng không bạo động, và vai
trò giám sát của Quốc Hội. Ðó là những định chế giúp thể hiện nguyên tắc chính
quyền chỉ “cai trị với sự đồng ý của người bị cai trị.” Những vị cựu giám đốc
CIA có thể phản đối những nhận xét sai lầm của bản phúc trình nhưng không ai
khước từ những quyền căn bản của các công dân nước Mỹ.
Trong quá khứ, các
công dân Mỹ đã thể hiện một quyền căn bản là tìm hiểu và phơi bày trước công luận
những điều họ coi là vi phạm Hiến Pháp, luật pháp, và những nguyên tắc lớn của
chế độ dân chủ; với hậu quả là “bêu xấu” chính quyền Mỹ trước công luận thế giới.
Một công dân đã cho phép báo chí Mỹ in những hình ảnh cuộc thảm sát Mỹ Lai. Các
nhà báo đã phơi bày những vi phạm pháp luật của Tổng Thống Nixon trong vụ
Watergate. Các công dân Mỹ đã phản đối chương trình nghe lén điện thoại của
chính phủ, gây bối rối cho cả việc bang giao với đồng minh. Hiện nay dân Mỹ
đang phản đối hành vi của các cảnh sát viên giết lầm những người da đen bị tình
nghi vì phản ứng vội vã - hoặc vì thành kiến chủng tộc như có người tố cáo. Tất
cả những hành động tố giác và những cuộc bàn cãi công khai tiếp theo có thể nói
là “vạch áo cho người xem lưng.” Nhưng chính dân Mỹ làm công việc “vạch áo” này
mà không cần phải hổ thẹn. Ngược lại, họ có thể hãnh diện vì vẫn sống đúng truyền
thống dân chủ tự do đã được nêu ra trong Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập, trong Hiến
Pháp nước Mỹ từ hơn 200 năm nay. Bản phúc trình Feinstein cho thấy hệ thống
chính trị nước Mỹ vẫn đầy sinh lực giúp cho quốc gia này luôn luôn có khả năng
tự cải thiện.
Người Việt Nam chứng
kiến cuộc tranh cãi về bản phúc trình Feinstein phải đặt câu hỏi: Bao giờ nước
ta mới có những bà Feinstein? Quốc Hội bù nhìn không bao giờ làm công việc chất
vấn về những vụ công an tra tấn. Bao nhiêu người đã chết trong tay công an? Bao
nhiêu người bị gán cho là “tự tử” trong đồn công an sau các cơn tra tấn?
Công an dùng nhục
hình, tra tấn là nguyên nhân gây ra bao nhiêu vụ xử oan ở nước ta. Trong một
bài trước, mục này đã nêu trường hợp ông Hàn Ðức Long bị tử hình năm 2005 về tội
hiếp dâm và giết một bé gái năm tuổi. Qua nhiều lần kháng cáo, với 5 phiên tòa,
năm 2011, tòa án tỉnh Bắc Giang tiếp tục tuyên án tử hình. Luật sư của ông Long
cho biết khi bị điều tra ông Long đã “nhận tội” vì tra tấn, đánh đập. Trong tất
cả 5 phiên tòa ông một mực phản cung, kêu oan, và tố cáo bị công an truy bức bằng
nhục hình, buộc phải nhận tội. Cho đến nay, sau gần 10 năm bị bắt, tử tù Long
và gia đình vẫn không ngừng kêu oan.
Guồng máy công an
trong các xã hội độc tài đảng trị đều dùng tra tấn; gây nên bao cảnh bất công. Ở
nước ta bao nhiêu người đã là nạn nhân của chế độ côn đồ này. Các mạng lưới bên
Trung Quốc đang sôi nổi về một vụ án được xử lại. Năm 1996, một thanh niên 18
tuổi người Nội Mông là Huugjilt (tên Hán Việt là Hao Các Cát Lặc Ðồ) bị tử hình
về tội hiếp dâm và giết người, bị hành quyết ngay hai tháng sau. Năm nay, tòa
án đem xử lại và tuyên bố Huugjilt vô tội. Vì năm 2005, một tử tội khác, một
người đã phạm tội hiếp dâm và giết người nhiều lần là Zhao Zhihong (Triệu Chí Hồng)
thú nhận rằng chính anh ta là hung thủ trong vụ án 1996.
Khi ra tòa, công tố
viên hỏi Huugjilt tại sao anh ta đã thú tội trong đồn công an là chính mình hiếp
và giết người. Huugjilt trả lời, lời khai còn giữ trong biên bản, nói rằng
trong đồn công an họ không cho anh uống nước, cũng không cho ăn, không cho dùng
nhà vệ sinh. Họ nói (dối) với anh rằng cô gái vẫn còn sống và chính cô ta tố
cáo anh là thủ phạm. Họ còn hứa hẹn nếu anh thú tội thì sẽ được thả. Phải đợi 9
năm kể từ khi hung thủ thật thú tội, 18 năm sau khi Huugjilt chết, sau khi dư
luận trên các mạng phản kháng ồn ào, Huugjilt mới được đem xử lại và được trắng
án. Quan tòa an ủi cha mẹ anh ta bằng số tiền bồi thường 30,000 đồng nguyên,
khoảng 5,000 đô la Mỹ.
Nhân vụ trên các mạng
xã hội bên Trung Quốc cũng lên tiếng phản đối một vụ hành quyết khác. Năm 1994,
anh Nie Shubin (Nhiếp Thọ Bân) bị kết tội giống như Huugjilt, chết lúc mới 21
tuổi. Ðến năm 2005, hung thủ thật bị bắt vì chuyện khác cũng thú mình mới là thủ
phạm. Nhưng cho tới nay guồng máy tư pháp của Trung Cộng vẫn chưa minh oan cho
Nie Shubin.
Bao giờ ở nước ta mới
có những đại biểu Quốc Hội lên tiếng việc dùng tra tấn, nhục hình? Chỉ khi nào
những người như Tạ Phong Tần, Bùi Thị Minh Hằng, Huỳnh Thục Vi, Nguyễn Thị Kim
Chi, vân vân, được quyền tranh cử và được dân bỏ phiếu bầu, lúc đó mới có những
bà Feinstein trong Quốc Hội Việt Nam. Theo Tiến Sĩ Vannarith Chheang ở Phnom
Penh, giám đốc Viện Nghiên Cứu Hợp Tác và Hòa Bình thì kể từ năm 1993 đến nay
chế độ chính trị tại Việt Nam còn thua cả Campuchia về tính chất dân chủ và tôn
trọng nhân quyền.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét