Bài học đầu tiên về luật pháp tôi học ở nước Mỹ
Lê Công Định
Tôi nhận học bổng Fulbright sang Mỹ học chương trình Master
of Laws năm 1999 tại Đại học Tulane ở thành phố New Orleans, bang Louisiana.
Trước khi vào Tulane, tôi đến Đại học Columbia ở thành phố New York, học chương
trình Orientation (định hướng) về luật và tiếng Anh. Fulbright luôn tạo điều kiện
để các sinh viên có cơ hội biết thêm văn hóa tại những vùng khác nhau của nước
Mỹ, nên thường người học sẽ đến vài thành phố để dự các khóa giảng. Nhờ vậy tôi
được dịp sống tại New York trong hơn hai tháng. Dù thời gian ngắn, nhưng phải
nói thật, tôi yêu New York hơn tất cả những nơi khác, vì có lẽ tôi đã dành nhiều
thời gian khám phá nó từ các góc cạnh khác nhau.
Hồi sống trong khu học xá sinh viên của Đại học Columbia,
tôi giữ thói quen đều đặn kiểm tra hộp thư để xem gia đình có gửi thư sang hay
không, vì lúc ấy ba mẹ và anh em tôi chưa ai sử dụng email. Sau một lần nói
chuyện với gia đình qua điện thoại, tôi ước chừng độ mươi ngày sau thư sẽ đến. Một
buổi chiều, linh tính cho biết đã có thư, đi học về, tôi nhanh chân bước vào sảnh
ký túc xá, thì thấy người giao thư đã giăng dây xung quanh nơi đặt các hộp thư.
Bên trong hàng dây có một tấm biển ghi hai chữ “No entry”, cấm mọi người bước
vào, để anh ta tiện sắp xếp bỏ thư. Thông thường công việc đó chỉ mất độ 15
phút, nên tôi lên phòng ngồi chờ.
Khoảng hơn một giờ sau tôi bước xuống, vẫn thấy hàng dây còn
giăng ngang. Cẩn thận, tôi bước đến hỏi người bảo vệ khu học xá xem người giao
thư đã làm xong chưa. Anh này nhún vai bảo không biết. Không thấy người giao
thư để hỏi, tôi lại lên phòng ngồi chờ thêm nửa giờ. Sau đó, thấy trời sắp tối,
tôi lại đi xuống. Lần này vẫn thấy dây còn giăng xung quanh, tôi ngó trước sau
không thấy cả người giao thư lẫn bảo vệ khu học xá, nên tần ngần không biết hỏi
ai. Trong lòng nôn nóng nhận thư, tôi liều lĩnh bước qua hàng dây đi vào mở hộp
thư của mình. Quả nhiên có thư. Tôi mừng quá, lấy xong bước qua hàng dây đi ra.
Vừa lúc đó, anh chàng giao thư người da đen xuất hiện. Thấy
tôi vừa cao chân bước qua, anh giận dữ hét lên, “tại sao anh làm như vậy?” Tôi
cảm thấy xấu hổ vô cùng, vội phân bua rằng vì đã chờ đợi quá lâu, lại đang cần
đọc thư, mà tìm anh ấy không được, nên đành làm đại. Anh ấy tỏ ý thông cảm,
không trách nữa, nhưng vẫn nói câu cuối trước khi mỉm cười với tôi: “But, law is
law!” (Nhưng, luật là luật). Tôi choáng váng! Tất nhiên, đó không phải là luật
pháp gì ghê gớm của nước Mỹ, mà chỉ là luật lệ ước định giữa những người sống
trong một cộng đồng dân cư nào đó thôi.
Song quả thật, luật là luật, dù cưỡng hành hay không, vẫn
không có chuyện thông cảm hay viện cớ này nọ để vi phạm. Dù anh ấy không biết
tôi là sinh viên luật, dù anh ấy chỉ là người giao thư bình thường như bao người
Mỹ đang làm việc một cách lương thiện trong xã hội, nhưng chỉ một câu nói như
thế của anh đã khiến tôi học được nhiều điều. Đó là bài học đầu tiên về luật
pháp mà tôi học ở nước Mỹ. Tôi chợt hiểu ra vì sao nước Mỹ hùng mạnh, bởi mỗi
công dân của họ đều được giáo dục đủ để biết tuân thủ luật pháp trong những điều
nhỏ nhặt nhất. Đó chính là nền tảng của một xã hội văn minh và phát triển.
Bài học đầu tiên ấy tôi vẫn còn nhớ đến hôm nay. Người da
đen vô danh năm nào vô tình đã trở thành thầy dạy luật đầu tiên của tôi ở Mỹ.
Thật ra, không cần vào đại học, không cần những bài giảng cao siêu và khó hiểu,
người ta vẫn có thể học được những điều tốt đẹp trong cuộc sống này. Về sau,
khi nằm trong tù, đôi lần tôi tự hỏi phải chăng mình đã không thuộc bài học ấy,
đến nỗi đã vi phạm luật pháp để vào tù (?!). Song ngay lập tức, không xấu hổ,
tôi nhận ra rằng vì lý tưởng xây dựng một xã hội trọng pháp thực sự, người ta cần
dũng cảm vi phạm những đạo luật bất công tồn tại lâu trong một xã hội vô pháp.
Nguyên tắc nào cũng có những ngoại lệ cao cả là vậy, như lời dạy của thầy tôi
ngày xưa, tiến sĩ luật Đào Quang Huy, cựu giáo sư Học viện Quốc gia Hành chánh
thời Việt Nam Cộng Hòa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét