Ngọc
Diệp (giới thiệu)
Nước Mỹ đang trong giai đoạn quan trọng nhất để tái định hình chính sách đối ngoại kể từ sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Dù Washington vẫn đang bị chia rẽ sâu sắc trong hầu hết các vấn đề, nhưng đã xuất hiện sự đồng thuận ngày một lớn cho rằng kỷ nguyên can dự với Trung Quốc đã đột ngột chấm dứt. Cuộc tranh luận giờ đây xoay quanh vấn đề điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.
Cũng giống như các cuộc tranh luận trong lịch sử chính sách đối ngoại của Mỹ, cuộc tranh luận này chứa đựng cả nhân tố cải tiến tích cực lẫn nhân tố định hướng công chúng. Hầu hết các nhà quan sát đều đồng ý rằng, theo cách diễn đạt trong Chiến lược an ninh quốc gia của Chính quyền Trump vào năm 2018, “cạnh tranh chiến lược” sẽ thúc đẩy sự tiếp cận của Mỹ với Trung Quốc. Nhưng những khuôn khổ chính sách đối ngoại bắt đầu bằng từ “chiến lược” thường đặt ra nhiều nghi vấn hơn là đưa ra câu trả lời. “Kiên nhẫn chiến lược” cho thấy sự không chắc chắn về việc phải làm những gì và vào lúc nào. “Mập mờ chiến lược” phản ánh sự bất ổn về tín hiệu cần phát đi. Và trong trường hợp này, “cạnh tranh chiến lược” là biểu hiện của việc không biết chắc đó là cuộc cạnh tranh trên những phương diện nào và việc giành phần thắng sẽ có ý nghĩa gì.
Sự hình thành nhanh chóng của đồng thuận mới khiến những câu hỏi cốt yếu về cạnh tranh Mỹ-Trung bị bỏ ngỏ. Chính xác thì Mỹ đang cạnh tranh vì điều gì? Kết cục mong muốn của cuộc cạnh tranh này có thể là như thế nào? Việc không kết nối được các phương tiện cạnh tranh với những mục tiêu rõ ràng sẽ đẩy chính sách của Mỹ tới chiều hướng cạnh tranh vô nghĩa để rồi rơi vào vòng xoáy đối đầu nguy hiểm.
Giới hoạch định chính sách và các nhà phân tích Mỹ có lý khi phần lớn bỏ qua những giả định lạc quan vốn là cơ sở của chiến lược can dự vào nền kinh tế và ngoại giao của Trung Quốc trong 4 thập kỉ qua. Nhưng khi vội vã ủng hộ cạnh tranh, những nhà hoạch định chính sách có thể đang thay thế lối tư duy mơ tưởng kiểu cũ bằng một biến thể mới. Sai lầm cơ bản của sự can dự chính là việc cho rằng chiến lược này có thể tạo ra những thay đổi cơ bản trong hệ thống chính trị, kinh tế và chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Washington ngày nay có nguy cơ lặp lại sai lầm tương tự, khi giả định rằng cạnh tranh có thể biến đổi được Trung Quốc, nơi mà sự can dự của Mỹ đã thất bại - lần này là bằng cách buộc nước này phải đầu hàng hoặc thậm chí sụp đổ.
Bất chấp hai bên còn nhiều chia rẽ, Mỹ và Trung Quốc đều cần phải sẵn sàng chung sống với tư cách là những cường quốc. Điểm khởi đầu cho cách tiếp cận đúng đắn của Mỹ phải là sự thừa nhận rằng các quyết định được đưa ra ở Washington không có nhiều tác động đối với đường hướng diễn biến trong dài hạn tại Bắc Kinh. Thay vì dựa vào những giả định về quỹ đạo của Trung Quốc, chiến lược của Mỹ cần phải bền vững bất kể tương lai mang lại những thay đổi ra sao trong hệ thống của Trung Quốc. Chiến lược đó không nên tìm cách đạt được một kết quả ngã ngũ giống với kết cục cuối cùng của Chiến tranh Lạnh, mà nên hướng tới trạng thái chung sống ổn định được nhận thức rõ ràng dựa trên các điều khoản có lợi cho các lợi ích và giá trị Mỹ.
Việc chung sống như vậy đòi hỏi phải có các yếu tố cạnh tranh và hợp tác, trong đó, các nỗ lực cạnh tranh của Mỹ hướng tới việc bảo đảm các điều khoản thuận lợi đó. Điều này có thể đồng nghĩa với việc sẽ có những xích mích đáng kể trong ngắn hạn khi chính sách của Mỹ vượt lên trên cả ngưỡng can dự - trong khi trước đây, việc tránh xích mích để phục vụ cho mối quan hệ tích cực lại là một mục tiêu quan trọng. Tới đây, chính sách với Trung Quốc không thể chỉ hướng đến kiểu quan hệ mà Mỹ mong muốn, mà còn phải dựa trên những lợi ích Mỹ muốn đạt được. Trạng thái ổn định mà Washington theo đuổi cần phải có đủ hai yếu tố như vậy. Đó là một chuỗi các điều kiện cần thiết để ngăn chặn vòng xoáy leo thang nguy hiểm, kể cả khi cạnh tranh vẫn tiếp diễn.
Những nhà hoạch định chính sách Mỹ không nên loại bỏ mục tiêu trên chỉ bởi họ cho rằng nó không thực tế. Đương nhiên, Trung Quốc cũng góp phần quyết định vào việc liệu có đạt được kết quả này hay không. Sự cẩn trọng vì thế sẽ vẫn phải được xem là điểm chính yếu trong quan hệ Mỹ-Trung trong thời gian tới. Mặc dù việc chung sống đem lại cho Mỹ cơ hội tốt nhất để bảo vệ lợi ích của mình và ngăn chặn những căng thẳng không thể tránh khỏi biến thành đối đầu trực diện, thì cũng không có nghĩa là Mỹ sẽ chấm dứt cạnh tranh hay đầu hàng trong những vấn đề cốt yếu. Thay vào đó, cùng chung sống tức là chấp nhận coi cạnh tranh là điều kiện có thể quản trị được, chứ không phải là một vấn đề phải giải quyết.
Bài học từ Chiến tranh Lạnh chứ không phải logic của Chiến tranh Lạnh
Trong bối cảnh của sự luận bàn mơ hồ về cạnh tranh hiện nay, mong muốn tìm về với Chiến tranh Lạnh – cuộc cạnh tranh nước lớn duy nhất mà người Mỹ còn nhớ để lý giải cho cuộc cạnh tranh hiện tại, là điều dễ hiểu. Sự tương đồng giữa chúng thu hút trực giác của chúng ta. Giống như Liên Xô, Trung Quốc là một đối thủ cạnh tranh tầm châu lục với hệ thống chính trị có những tham vọng lớn. Thách thức mà Trung Quốc đặt ra có phạm vi toàn cầu và tồn tại lâu dài, và để đối đầu với thách thức đó cần tới kiểu tổng động viên toàn quốc mà Mỹ đã theo đuổi trong những năm 1950 và 1960.
Nhưng phép so sánh này không phù hợp. Trung Quốc ngày nay là một đối thủ xứng tầm, có sức mạnh kinh tế vượt trội, đường lối ngoại giao tinh vi hơn và hệ tư tưởng linh hoạt hơn so với Liên Xô trước đây. Khác với Liên Xô, Trung Quốc hội nhập sâu vào kinh tế thế giới và gắn bó chặt chẽ với kinh tế Mỹ. Chiến tranh Lạnh thực chất chỉ là một cuộc đấu tranh xoay quanh sự tồn tại. Chiến lược kiềm chế được Mỹ xây dựng dựa trên giả định cho rằng Liên Xô một ngày nào đó sẽ gục ngã dưới sức nặng của chính mình, một chủ thể “mang trong mình những hạt mầm tự suy tàn”, như George Kennan, nhà ngoại giao Mỹ, người đầu tiên đặt nền tảng xây dựng nên chiến lược này, tuyên bố đầy tự tin.
Những dự đoán như vậy hiện nay không còn phù hợp nữa. Sẽ là sai lầm khi xây dựng một chính sách kiềm chế kiểu mới dựa trên giả định rằng nhà nước Trung Quốc đương đại rốt cuộc sẽ sụp đổ, hoặc coi đó là mục tiêu. Dù Trung Quốc còn đang gặp nhiều thách thức, song Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cho thấy năng lực đáng kinh ngạc trong việc thích ứng với hoàn cảnh. Trung Quốc có thể sẽ phải đối diện với nhiều vấn đề nội tại nghiêm trọng, nhưng kỳ vọng về sự sụp đổ không thể là nền tảng của một chiến lược khôn ngoan. Ngay cả nếu nhà nước Trung Quốc sụp đổ, thì đó nhiều khả năng là hệ quả của những động lực bên trong, chứ không phải là do sức ép của Mỹ.
Phép so sánh với Chiến tranh Lạnh ngay lập tức phóng đại mối đe dọa về sự tồn tại mà Trung Quốc gây ra, đồng thời bỏ qua những thế mạnh mà Bắc Kinh có thể đem tới cuộc cạnh tranh lâu dài hạn với Mỹ. Mặc dù nguy cơ xung đột tại những điểm nóng ở châu Á là rất nghiêm trọng, nhưng nguy cơ đó cũng như mối đe dọa về leo thang hạt nhân đều chưa đạt tới mức độ như ở châu Âu thời Chiến tranh Lạnh. Hình thái chính sách “bên miệng hố chiến tranh” hạt nhân từng diễn ra ở Berlin và Cuba không có chỗ đứng trong quan hệ Mỹ-Trung. Cạnh tranh Mỹ-Trung cũng chưa đẩy thế giới lâm vào các cuộc chiến tranh ủy nhiệm hay tạo ra hai khối đối địch gồm các nước liên kết với nhau về tư tưởng, để chuẩn bị cho đụng độ vũ trang.
Dù mối nguy đã giảm bớt, thế nhưng Trung Quốc lại là đối thủ đặt ra nhiều thách thức hơn. Trong một thế kỉ qua, không một đối thủ nào của Mỹ, kể cả Liên Xô, có quy mô kinh tế đạt tới ngưỡng bằng 60% GDP của Mỹ. Trung Quốc đã vượt ngưỡng này vào năm 2014; và nếu tính theo sức mua tương đương, GDP của Trung Quốc đã lớn hơn 25% so với Mỹ. Trung Quốc đang nổi lên là quốc gia dẫn đầu thế giới trong một số ngành kinh tế, và nền kinh tế Trung Quốc cũng đa dạng, linh hoạt và tinh vi hơn nền kinh tế Liên Xô.
Bắc Kinh cũng thành công hơn trong việc biến sức mạnh kinh tế thành ảnh hưởng chiến lược. Trong khi Liên Xô bị một nền kinh tế khép kín kìm hãm, thì Trung Quốc đón nhận toàn cầu hóa và trở thành đối tác thương mại hàng đầu của hơn 2/3 các nước trên thế giới. Những mối liên kết về kinh tế, công nghệ, và giữa nhân dân hai nước vốn thiếu vắng trong cuộc xung đột quân sự hóa Mỹ-Liên Xô, lại chính là những yếu tố định hình quan hệ của Trung Quốc với Mỹ và với thế giới. Là bên tham gia kinh tế toàn cầu, Trung Quốc đóng vai trò trung tâm đối với sự thịnh vượng của các đồng minh, đối tác của Mỹ; sinh viên và du khách Trung Quốc tìm đến khắp các trường đại học và thành phố trên toàn cầu; các nhà máy tại Trung Quốc là công xưởng của phần lớn ngành công nghệ tiên tiến của thế giới. Những mối liên hệ khăng khít này khiến ngay cả việc bắt tay vào xác định xem đâu là nước liên minh với Trung Quốc và đâu là nước liên minh với Mỹ cũng trở nên khó khăn. Ecuador và Ethiopia có thể tìm đến Bắc Kinh để có được vốn đầu tư hay những công nghệ giám sát, nhưng họ sẽ không coi những thương vụ như vậy là một phần trong việc rời xa nước Mỹ một cách có chủ ý.
Ngay cả khi nổi lên là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm hơn Liên Xô, Trung Quốc vẫn là đối tác quan trọng của Mỹ. Nhiều vấn đề toàn cầu vốn rất khó xử lý ngay cả khi Mỹ và Trung Quốc cùng nhau hợp tác, sẽ trở nên không thể giải quyết được nếu Mỹ và Trung Quốc rời xa nhau – trong đó biến đổi khí hậu là vấn đề nổi bật nhất, khi xét tới việc Trung Quốc và Mỹ là hai nước gây ô nhiễm nhiều nhất thế giới. Một loạt thách thức xuyên quốc gia khác – khủng hoảng kinh tế, phổ biến vũ khí hạt nhân, dịch bệnh toàn cầu - cũng cần đến các nỗ lực chung nhất định. Đòi hỏi cấp thiết về sự hợp tác là điều hầu như không có ở thời Chiến tranh Lạnh.
Trong khi ý niệm về Chiến tranh Lạnh mới khiến nhiều người cổ súy một phiên bản được cập nhật của chính sách kiềm chế, thì việc phản bác lại lối suy nghĩ như vậy lại đến từ những tiếng nói ủng hộ “giao kèo lớn” có tính tương thích với Trung Quốc. Một giao kèo như vậy sẽ vượt xa những điều khoản của sự hòa hoãn Mỹ-Liên Xô: Trong kịch bản này, Mỹ sẽ nhường cho Trung Quốc phạm vi ảnh hưởng trên thực tế ở châu Á. Những người ủng hộ lý giải rằng sự nhượng bộ này là cần thiết, khi xét tới những cơn gió ngược trong lòng nước Mỹ cũng như sự suy yếu tương đối của Mỹ. Quan điểm này được cho là thực tế, nhưng cũng chẳng có khả năng trụ vững hơn là bao so với chính sách kiềm chế. Trao khu vực năng động nhất thế giới vào tay Trung Quốc sẽ gây tác hại lâu dài đối với người lao động và doanh nghiệp Mỹ. Hành động này sẽ hủy hoại các đồng minh và các giá trị của Mỹ khi lấy các đối tác chủ quyền ra làm lá bài thương lượng. Giao kèo lớn cũng sẽ đòi hỏi những sự nhượng bộ rõ ràng và lâu dài từ phía Mỹ, như từ bỏ các liên minh hoặc quyền hoạt động ở Tây Thái Bình Dương, chỉ vì những lời hứa không chắc chắn. Những phí tổn này không những không thể chấp nhận được, mà giao kèo lớn còn không có tính khả thi. Một Trung Quốc đang trỗi dậy có khả năng sẽ vi phạm thỏa thuận khi sức mạnh và những ưu tiên của Bắc Kinh thay đổi.
Những người ủng hộ chính sách kiềm chế mới thường có thiên hướng coi bất kỳ lời kêu gọi nào về việc chung sống có kiểm soát là lập luận ủng hộ cho một phiên bản nào đó của giao kèo lớn; còn những người ủng hộ giao kèo lớn lại coi bất kỳ gợi ý nào về cạnh tranh lâu dài là lý lẽ ủng hộ cho một phiên bản nào đó của chính sách kiềm chế. Sự chia rẽ đó làm lu mờ hướng đi trung hòa hai thái cực – một hướng đi không dựa trên sự quy hàng của Trung Quốc hay là nền tảng đồng quản trị Mỹ-Trung.
Thay vào đó, mục tiêu cần đặt ra là thiết lập các điều khoản có lợi về việc chung sống với Bắc Kinh trong 4 lĩnh vực cạnh tranh – quân sự, kinh tế, chính trị và quản trị toàn cầu - từ đó bảo đảm lợi ích của Mỹ mà không làm nảy sinh nhận thức về mối đe dọa vốn là đặc trưng của sự thù địch Mỹ-Liên Xô. Washington cần rút ra bài học từ Chiến tranh Lạnh, nhưng cũng phải biết chối bỏ ý tưởng áp dụng logic của Chiến tranh Lạnh.
Hướng đến răn đe bền vững
Khác hẳn với cạnh tranh quân sự thời Chiến tranh Lạnh mà thực chất là một cuộc đấu tranh toàn cầu, mối nguy hiểm đối với Washington và Bắc Kinh có khả năng bó hẹp trong phạm vi Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Nhưng ngay cả như vậy, khu vực này vẫn tồn tại ít nhất 4 điểm nóng tiềm tàng: biển Đông, biển Hoa Đông, eo biển Đài Loan và bán đảo Triều Tiên. Không bên nào muốn xung đột, nhưng căng thẳng vẫn gia tăng khi cả Mỹ và Trung Quốc đều đầu tư cho năng lực tấn công, thúc đẩy sự hiện diện quân sự ở khu vực và hoạt động ở cự ly gần nhau hơn bao giờ hết. Washington lo sợ Trung Quốc đang tìm cách đẩy lực lượng Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương, còn Bắc Kinh e ngại Mỹ đang tìm cách bao vây mình. Xét đến hành vi quấy rối của Trung Quốc nhằm vào máy bay và tàu hải quân Mỹ, một cuộc đụng độ nhỏ cũng tiềm ẩn nguy cơ leo thang thành một cuộc đối đầu quân sự lớn. Đô đốc Ngô Thắng Lợi, cựu Tư lệnh Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã cảnh báo rằng một sự cố như vậy “có thể châm ngòi cho một cuộc chiến tranh”.
Tuy nhiên, không nên vì thế mà coi việc quân đội Mỹ và Trung Quốc cùng hiện diện ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là bất khả thi. Mỹ phải chấp nhận rằng việc khôi phục ưu thế quân sự là rất khó khăn, khi xét đến tầm tác chiến của các loại vũ khí của Trung Quốc; thay vào đó Mỹ nên tập trung răn đe Trung Quốc, không để Trung Quốc can thiệp vào quyền tự do hành động của Mỹ, ép buộc các đồng minh và đối tác của Mỹ. Bắc Kinh sẽ phải chấp nhận rằng Mỹ vẫn sẽ là cường quốc ở khu vực, với sự hiện diện quân sự lớn, các hoạt động hải quân trên các tuyến đường biển chủ yếu và mạng lưới quan hệ đồng minh, đối tác.
Đài Loan và Biển Đông có khả năng sẽ là những thách thức to lớn nhất đối với cách tiếp cận tổng thể này. Khiêu khích quân sự hay hiểu lầm đều có thể dễ dàng khơi mào xung đột lớn hơn với nhiều hệ quả thảm khốc, và nguy cơ này hẳn đang ngày càng chi phối tư duy của giới lãnh đạo cấp cao ở cả Washington lẫn Bắc Kinh.
Về Đài Loan, một cam kết ngầm không đơn phương thay đổi nguyên trạng có lẽ là hy vọng lạc quan nhất khi xét đến lịch sử phức tạp của vấn đề này. Hoạt động ngoại giao xoay quanh Đài Loan có thể là hình mẫu cho hoạt động ngoại giao ngày càng nhiều thách thức giữa Washington và Bắc Kinh trong một loạt vấn đề, mà chắc hẳn sẽ bao gồm sự can dự mạnh mẽ, sự thận trọng từ cả hai phía, sự hoài nghi ở mức độ nhất định cũng như sự kiên nhẫn và kiềm chế cần thiết. Trong khi đó, ở biển Đông, việc Bắc Kinh nhận thức được rằng các mối đe dọa đối với quyền tự do hàng hải có thể gây ra những hậu quả thảm khốc đối với nền kinh tế của chính Trung Quốc, khi kết hợp với sự răn đe của Mỹ, có thể giúp giảm bớt các căng thẳng ở khu vực này.
Để cùng chung sống được như vậy, Washington cần nâng cao cả năng lực kiểm soát khủng hoảng Mỹ-Trung lẫn năng lực răn đe của chính mình. Ngay cả khi là đối thủ của nhau trong Chiến tranh Lạnh, Mỹ và Liên Xô vẫn phối hợp hành động để giảm thiểu nguy cơ xảy ra một cuộc đụng độ bất chợt leo thang thành chiến tranh hạt nhân; hai bên thiết lập đường dây nóng quân sự, lập ra bộ quy tắc ứng xử và ký các thỏa thuận kiểm soát vũ khí. Mỹ và Trung Quốc đang thiếu những công cụ tương tự để kiểm soát khủng hoảng tại thời điểm mà những lĩnh vực mới tiềm ẩn nguy cơ xung đột, như vũ trụ và không gian mạng, đã làm gia tăng nguy cơ leo thang.
Về quân sự, Mỹ và Trung Quốc cần phải có được các thỏa thuận mà ít nhất cũng phải chính thống và chi tiết như Thỏa thuận tránh sự cố trên biển Mỹ-Liên Xô ký năm 1972 đặt ra một những quy tắc cụ thể nhằm tránh những hiểu lầm trên biển. Mỹ và Trung Quốc cũng cần có nhiều kênh thông tin liên lạc và cơ chế trao đổi để tránh xung đột, nhất là ở biển Đông, cho phép mỗi bên nhanh chóng làm rõ ý định của đối phương trong trường hợp xảy ra sự cố. Không thể tiếp tục lấy quan hệ quân sự song phương ra làm con tin cho những bất đồng chính trị và các quan chức quân sự cấp cao hai nước cần tham gia thảo luận sâu rộng và thường xuyên hơn để xây dựng quan hệ cá nhân cũng như để hiểu hơn về hoạt động tác chiến của nhau. Lịch sử cho thấy, rất khó đạt được sự tiến bộ trong những nỗ lực như vậy, nhất là về trao đổi thông tin trong khủng hoảng: Ban lãnh đạo Trung Quốc lo sợ rằng việc trao đổi thông tin trong khủng hoảng có thể khiến Mỹ hành xử táo bạo hơn mà không bị trừng phạt. Nhưng những lo ngại này có thể đang dịu đi khi xét tới sức mạnh đang gia tăng và những cải tổ quân sự của Trung Quốc.
Một chiến lược hiệu quả của Mỹ trong lĩnh vực này không chỉ đòi hỏi phải giảm nguy cơ xung đột không mong muốn mà còn đòi hỏi phải có sự răn đe xung đột có chủ ý. Không thể cho phép Bắc Kinh sử dụng đe dọa vũ lực để tạo ra thế đã rồi trong các tranh chấp lãnh thổ. Nhưng việc quản lý nguy cơ này không cần đến ưu thế quân sự của Mỹ trong khu vực. Như cựu quan chức quốc phòng Elbridge Colby trong Chính quyền Trump đã nói, “răn đe mà không chi phối - ngay cả đối với một đối thủ lớn và đáng gờm - là điều có thể làm được”.
Để đảm bảo sự răn đe ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, Washington cần chuyển hướng đầu tư, từ bỏ các phương tiện đắt đỏ và dễ tổn thương, như tàu sân bay, để chuyển sang các khả năng bất đối xứng với chi phí thấp hơn được thiết kế để ngăn chặn chủ nghĩa phiêu lưu của Trung Quốc mà không cần chi tiêu quá nhiều. Việc này đòi hỏi Mỹ phải học hỏi một phần cách chơi của Trung Quốc. Ví dụ, khi xét thấy Trung Quốc chủ yếu dựa vào tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình chống hạm chi phí thấp, Mỹ cần cân nhắc sử dụng máy bay tấn công không người lái tầm xa cất cánh từ tàu sân bay, các phương tiện không người lái dưới nước, tàu ngầm mang tên lửa dẫn đường và các loại vũ khí tấn công tốc độ cao. Tất cả các loại vũ khí này có thể bảo đảm lợi ích của Mỹ và đồng minh, đồng thời làm giảm bớt niềm tin của Trung Quốc rằng các chiến dịch tấn công của họ sẽ thành công, giảm nguy cơ đụng độ và tính toán sai lầm. Mỹ cũng cần đa dạng hóa sự hiện diện quân sự của mình về phía Đông Nam Á và Ấn Độ Dương, khi cần có thể tận dụng các thỏa thuận tiếp cận thay vì đồn trú thường trực. Cách làm này sẽ đưa một số lực lượng Mỹ ra khỏi tầm tấn công chính xác của các tổ hợp vũ khí Trung Quốc, duy trì khả năng của quân đội Mỹ trong việc nhanh chóng xử lý khủng hoảng. Điều đó cũng giúp lực lượng Mỹ ở vào vị trí thuận lợi để xử lý một loạt tình huống bất ngờ không liên quan tới xung đột với Trung Quốc, trong đó có hỗ trợ nhân đạo, khắc phục thiên tai và chống cướp biển.
Tạo lập quan hệ “có đi có lại”
Khác với Liên Xô vốn chỉ tập trung nguồn lực cho sức mạnh quân sự, Trung Quốc xem địa kinh tế là lĩnh vực cạnh tranh chủ chốt. Với một tầm nhìn hướng đến tương lai, Trung Quốc đã đẩy mạnh đầu tư vào các ngành công nghiệp, công nghệ mới nổi, trong đó có trí tuệ nhân tạo, người máy, ngành chế tạo tiên tiến và công nghệ sinh học. Trung Quốc tìm cách thống lĩnh những lĩnh vực này một phần là bằng biện pháp không chấp nhận hành xử có đi có lại với các công ty phương Tây. Mỹ đã trao cho Trung Quốc quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR), ủng hộ Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và nhìn chung luôn duy trì một trong những thị trường mở nhất thế giới. Nhưng thông qua sự kết hợp giữa chính sách công nghiệp, chủ nghĩa bảo hộ và hành vi đánh cắp trắng trợn, Trung Quốc đã đặt ra một loạt rào cản chính thức và phi chính thức đối với thị trường của nước này và lợi dụng sự mở cửa của Mỹ.
Tình trạng mất cân bằng cấu trúc này làm suy yếu sự ủng hộ đối với quan hệ kinh tế Mỹ-Trung ổn định và quan hệ này đang đối diện với nguy cơ đổ vỡ cao hơn ngay cả nếu Trump và Tập Cận Bình đạt được đình chiến thương mại ngắn hạn. Nhiều người trong cộng đồng doanh nghiệp Mỹ đã không còn sẵn sàng chấp nhận chịu đựng những thông lệ không công bằng của Trung Quốc, trong đó có việc sử dụng tin tặc nhà nước để đánh cắp quyền sở hữu trí tuệ, ép buộc các công ty nước ngoài địa phương hóa hoạt động sản xuất và tham gia liên doanh,....
Để giảm bớt những bất đồng đang ngày một lớn này đồng thời bảo đảm quyền lợi cho người lao động Mỹ và sự đổi mới sáng tạo của Mỹ, cần khiến cho Trung Quốc không thể tiếp cận triệt để các thị trường lớn trên thế giới trừ phi nước này sẵn sàng thực thi cải cách kinh tế trong nước. Về phần mình, Washington sẽ phải đầu tư cho những động lực cốt lõi của sức mạnh kinh tế Mỹ, xây dựng một mặt trận thống nhất gồm các đối tác cùng chí hướng để thiết lập quan hệ có đi có lại và bảo đảm vị thế lãnh đạo trong lĩnh vực công nghệ của Mỹ đồng thời tránh gây tổn hại cho chính mình.
Nhân tố quyết định nhất trong cạnh tranh kinh tế với Trung Quốc là chính sách kinh tế trong nước của Mỹ. Có thể hơi quá khi đưa ra khái niệm “thời khắc Sputnik mới” – sự thúc đẩy mạnh mẽ nghiên cứu công của Mỹ ở mức độ mạnh mẽ như khi chứng kiến Liên Xô phóng vệ tinh đầu tiên trên thế giới, nhưng chính phủ chắc chắn đóng vai trò nhất định trong việc thúc đẩy vị thế đứng đầu của Mỹ trong kinh tế và công nghệ. Thế nhưng nước Mỹ lại đang từ bỏ chính hoạt động đầu tư công đầy tham vọng mà nước này từng tiến hành trong thời gian đó - như hệ thống đường cao tốc Liên bang từng được Tổng thống Dwight Eisenhower ủng hộ hay các dự án nghiên cứu cơ bản do nhà khoa học Vannevar Bush đề xuất - ngay cả khi Mỹ phải đối diện với một đối thủ kinh tế đáng gờm hơn. Washington phải tăng mạnh ngân sách cho nghiên cứu khoa học cơ bản và đầu tư vào năng lượng sạch, công nghệ sinh học, trí tuệ nhân tạo và năng lực điện toán. Đồng thời, chính quyền liên bang cần tăng cường đầu tư cho giáo dục ở tất cả các cấp và đầu tư cho hạ tầng; thực thi các chính sách về nhập cư theo hướng tiếp tục cải thiện lợi thế về nhân chủng học và kỹ năng của Mỹ. Hô hào cứng rắn với Trung Quốc nhưng lại cắt giảm đầu tư công là tự làm khó mình.
Trên nền tảng trong nước này, Washington cần hợp tác với các quốc gia có cùng chí hướng để định ra một bộ tiêu chuẩn mới về các vấn đề mà WTO hiện nay không giải quyết, từ doanh nghiệp nhà nước cho đến chính sách sáng tạo bản địa hay thương mại số. Lý tưởng nhất là những tiêu chuẩn này sẽ kết nối châu Á với châu Âu. Để làm được điều đó, Mỹ cần xem xét khởi động một sáng kiến tạo lập quy tắc đối với các nền dân chủ thị trường bao trùm lên hệ thống WTO để lấp đầy những lỗ hổng này. Logic này rất dễ hiểu. Muốn nuôi hy vọng được tiếp cận cộng đồng kinh tế mới này một cách bình đẳng, Trung Quốc buộc phải có các khuôn khổ kinh tế và luật lệ đáp ứng những tiêu chuẩn nêu trên. Sức hút trọng lực kết hợp của cộng đồng này sẽ đưa ra cho Trung Quốc một lựa chọn: Hoặc chấm dứt việc ngồi không hưởng lợi và bắt đầu tuân thủ luật thương mại, hoặc chấp nhận các điều khoản kém thuận lợi hơn mà hơn một nửa nền kinh tế toàn cầu đặt ra. Nếu khăng khăng cho rằng những cải cách cần thiết đồng nghĩa với thay đổi thể chế kinh tế, Bắc Kinh có thể tiếp tục làm vậy, nhưng thế giới sẽ hoàn toàn có quyền hành xử với Trung Quốc theo cách tương xứng. Trong một số trường hợp, Washington có thể vẫn cần đơn phương áp đặt các biện pháp có đi có lại đối với Trung Quốc, qua việc xử lý xuất khẩu và đầu tư của nước này theo đúng cách thức mà Bắc Kinh xử lý thương mại và đầu tư của Mỹ. Những nỗ lực này sẽ kéo theo những thách thức và phí tổn rất lớn, đó là lý do giải thích tại sao quyết định của Chính quyền Trump phát động chiến tranh thương mại cùng với các đồng minh của Mỹ thay vì tập hợp họ dựa trên lập trường chung đối chọi với Trung Quốc lại làm lãng phí ảnh hưởng đòn bẩy của Mỹ.
Mỹ cũng cần bảo vệ ưu thế về công nghệ của mình khi đối diện với hành vi đánh cắp quyền sở hữu trí tuệ, các chính sách công nghiệp có mục tiêu và việc kết hợp lĩnh vực kinh tế với an ninh của Trung Quốc. Muốn vậy, Mỹ cần phải củng cố những giới hạn về dòng chảy đầu tư và thương mại trong lĩnh vực công nghệ theo cả hai chiều, nhưng phải theo đuổi những nỗ lực này một cách có chọn lọc chứ không thể “vơ đũa cả nắm”, kiềm chế các công nghệ thiết yếu đối với an ninh quốc gia và nhân quyền, nhưng cho phép đầu tư và giao thương ở những lĩnh vực khác. Ngay cả khi thực thi những giới hạn có chọn lọc này, Mỹ cũng cần tham vấn ngành công nghiệp và các chính phủ khác; nếu không, hệ sinh thái công nghệ toàn cầu có thể bị “Balkan hóa” do dòng chảy kiến thức và tài năng bị chặn. Một bước phát triển như vậy có thể triệt tiêu ưu thế cạnh tranh chủ chốt của Mỹ so với Trung Quốc: một nền kinh tế mở có thể thu hút được nguồn tài năng dồi dào nhất trên toàn cầu và kết hợp các phát kiến vĩ đại nhất từ khắp nơi trên thế giới. Ngược lại, việc đẩy những rào cản công nghệ đi quá xa có thể sẽ khiến nhiều nước ngả về phía Trung Quốc, nhất là trong bối cảnh Trung Quốc hiện là đối tác thương mại lớn nhất của hầu hết các nước trên thế giới.
Trong lĩnh vực này, việc Chính quyền Trump lớn tiếng và đơn phương phát động chiến dịch phản đối tập đoàn Huawei của Trung Quốc tham gia phát triển hạ tầng mạng 5G có thể sẽ đưa ra một bài học cảnh tỉnh. Giá mà trước đây Mỹ hợp tác với đồng minh và đối tác, thử nghiệm vận dụng sức sáng tạo trong hoạch định chính sách, ví dụ như đưa ra sáng kiến cho vay đa phương để tài trợ cho việc mua sắm thiết bị thay thế cho thiết bị của Huawei, Mỹ có lẽ đã thành công hơn trong việc thuyết phục các nước xem xét lựa chọn các nhà cung cấp khác. Mỹ khi đó có lẽ đã có thể tận dụng triệt để thời hạn 2 năm mà Huawei phải trì hoãn triển khai công nghệ 5G sau khi bị Bộ Thương mại Mỹ liệt vào danh sách các thực thể không được cung cấp công nghệ Mỹ. Những nỗ lực trong tương lai nhằm hạn chế trao đổi thương mại với Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ đòi hỏi phải được xem xét cẩn trọng, được lập kế hoạch trước và có được sự ủng hộ đa phương; bằng không, việc làm này có nguy cơ hủy hoại sức sáng tạo của Mỹ.
Thúc đẩy giá trị Mỹ, không bài Trung Quốc
Cách thức tốt nhất để thiết lập các điều khoản có lợi cho việc cùng chung sống với Trung Quốc trong lĩnh vực chính trị là tập trung thúc đẩy sức lôi cuốn của chính những giá trị này chứ không phải là ghi điểm trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ-Trung. Khi Trung Quốc gia tăng sự hiện diện trên thế giới, Mỹ nên tránh đi theo xu hướng vốn rất phổ biến trong Chiến tranh Lạnh: Đó là chỉ nhìn nhận nước thứ ba dựa vào mối quan hệ của nước đó với chính quyền đối địch. Một vài chính sách của Chính quyền Trump – như viện dẫn Học thuyết Monroe ở Mỹ Latinh và gửi tới châu Phi một thông điệp mà nội dung chủ yếu là chống Trung Quốc - chính là biểu hiện của cách tiếp cận cũ kĩ này. Đường lối can dự tính chủ ý với các nước vì chính họ sẽ hiệu quả hơn trong việc thúc đẩy các lợi ích, giá trị Mỹ so với kiểu phản ứng bột phát trước những sáng kiến của Trung Quốc mà sẽ khiến các nước nghĩ rằng Washington chỉ coi họ là chiến trường trong cuộc cạnh tranh với Bắc Kinh.
Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) đem lại cơ hội rõ ràng nhất để áp dụng nguyên tắc này trên thực tế. Thay vì phản đối Trung Quốc mọi nơi mọi lúc – mọi bến cảng, mọi cây cầu, mọi tuyến đường sắt - Mỹ và các đối tác cần thuyết phục các nước ủng hộ những khoản đầu tư chất lượng cao, tiêu chuẩn cao mà sẽ có lợi nhất cho sự phát triển. Việc hỗ trợ các khoản đầu tư không chỉ bởi chúng có khả năng đánh bại Trung Quốc mà còn vì việc chúng hỗ trợ cho tăng trưởng, tính bền vững và tự do sẽ là cách làm hiệu quả hơn trong dài hạn, nhất là khi các khoản đầu do nhà nước Trung Quốc dẫn dắt đã gây ra mức độ phản kháng nhất định tại nhiều nước vì chi phí cao, không thông qua đấu thầu, tham nhũng, hủy hoại môi trường và điều kiện làm việc tồi tệ.
Theo hướng này, cách tốt nhất chính là việc nhấn mạnh các giá trị cốt yếu đối với quản trị hiệu quả, nhất là tính minh bạch và trách nhiệm giải trình. Kết hợp lại, những bước đi này có thể cải thiện cuộc sống ở thế giới đang phát triển và thu hẹp ảnh hưởng của Trung Quốc. Tiến trình hành động này sẽ đòi hỏi phải có nguồn tài trợ đa phương từ phía Mỹ, đồng minh và đối tác của Mỹ, có thể đem lại cho các nước những lựa chọn thay thế thực chất. Nhưng nó cũng cần tới một điều căn bản hơn: Mỹ cần tin tưởng hơn rằng đầu tư cho con người và sự quản trị hiệu quả sẽ phát huy tác dụng lớn hơn trong dài hạn so với cách tiếp cận bòn rút của Trung Quốc.
Tập trung vào các nguyên tắc thay vì cố tìm cách “giành điểm” cũng rất cần thiết đối với việc thiết lập các chuẩn mực cho những công nghệ mới đặt ra những câu hỏi khó về đạo đức con người. Từ trí tuệ nhân tạo cho tới công nghệ sinh học, từ vũ khí tự động tới biến đổi gen trên người, sẽ có một cuộc đấu tranh quan trọng trong những năm tới đây để xác định cách hành xử phù hợp và sau đó gây sức ép buộc những nước tụt hậu phải tuân thủ. Washington ngay lập tức bắt tay tạo dựng tiêu chí cho các cuộc thảo luận này. Cuối cùng, việc chung sống với Trung Quốc không nên và không thể ngăn chặn Mỹ lên tiếng phản đối cách hành xử vô nhân đạo và đáng lên án của Bắc Kinh. Mỹ cùng các đối tác cần huy động sức ép quốc tế.
Trình tự cạnh tranh và hợp tác
Người ta thường tin rằng khi quan hệ Mỹ-Trung trở nên cạnh tranh hơn, không gian cho hợp tác sẽ bị thu hẹp, nếu không muốn nói là biến mất. Nhưng ngay cả khi là đối thủ của nhau, Mỹ và Liên Xô vẫn tìm cách hợp tác trong một loạt vấn đề như khám phá không gian, xử lý bệnh truyền nhiễm, môi trường và tài nguyên chung toàn cầu. Nhu cầu hợp tác giữa Washington và Bắc Kinh cấp thiết hơn nhiều khi xét đến bản chất của những thách thức đương đại. Các nhà lãnh đạo hai nước cần coi việc hợp tác trong những thách thức xuyên quốc gia như vậy không phải là sự nhượng bộ của một bên, mà là nhu cầu cần thiết cho cả hai.
Để có được sự cân bằng đúng mức giữa cạnh tranh và hợp tác, Washington phải xem xét trình tự của từng yếu tố. Trong lịch sử, Mỹ thường tìm cách hợp tác trước rồi mới chuyển sang cạnh tranh với Trung Quốc. Ngược lại, Trung Quốc có vẻ cảm thấy thoải mái hơn với việc cạnh tranh trước và hợp tác sau, công khai hoặc ngầm liên kết những đề nghị hợp tác với những nhượng bộ từ phía Mỹ ở một số lĩnh vực có lợi ích chiến lược.
Tới đây, Washington cần tránh mải mê theo đuổi các thách thức xuyên quốc gia. Sự hăng hái có thể hạn chế mức độ hợp tác khi biến điều đó thành con bài thương lượng. Dù có vẻ trái với trực giác, nhưng cạnh tranh lại là điều cần thiết để có được sự hợp tác hiệu quả với Bắc Kinh. Trong tư duy chiến lược “được mất ngang nhau” của nhiều quan chức Trung Quốc, nhận thức về sức mạnh Mỹ và quyết tâm Mỹ có ý nghĩa rất quan trọng và bộ máy chính quyền Trung Quốc từ lâu đã tập trung vào những thay đổi trong cả hai nhân tố này. Xét đến tính nhạy cảm trên, việc Washington chứng tỏ khả năng đứng vững, thậm chí áp đặt phí tổn, có thể quan trọng không kém việc nghiêm túc thảo luận về vấn đề tìm kiếm sự nghiệp chung. Khi đó, cách tiếp cận tốt nhất sẽ là khởi đầu bằng cạnh tranh, sau đó đưa ra những đề nghị hợp tác và từ chối đàm phán về bất kỳ mối liên hệ nào giữa sự hỗ trợ của Trung Quốc trong các thách thức toàn cầu với sự nhượng bộ về lợi ích của Mỹ.
Vượt ra ngoài quan hệ song phương
Có một bài học khác của Chiến tranh Lạnh mà các nhà hoạch định chính sách của Mỹ cần phải luôn ghi nhớ. Một trong những sức mạnh vĩ đại nhất của Mỹ trong cạnh tranh với Trung Quốc không chỉ liên quan tới mỗi bên, mà còn liên quan tới tất cả các bên. Sức mạnh kết hợp của các đồng minh và đối tác của Mỹ có thể định hình lựa chọn của Trung Quốc ở tất cả các lĩnh vực – nhưng chỉ khi Washington làm sâu sắc thêm các mối quan hệ này và cùng nỗ lực kết nối tất cả lại với nhau. Dù phần lớn những bàn luận về cạnh tranh Mỹ-Trung tập trung vào khía cạnh song phương, nhưng cuối cùng Mỹ sẽ phải đưa chiến lược Trung Quốc của mình vào một mạng lưới dày đặc các mối quan hệ và thể chế ở châu Á và phần còn lại của thế giới.
Đây là bài học mà Chính quyền Trump nên ghi nhớ. Thay vì khai thác những ưu thế bền vững này, Mỹ lại tách mình khỏi nhiều bạn bè truyền thống, với việc áp thuế, đòi hỏi đối tác phải chi tiền cho các căn cứ quân sự của Mỹ và nhiều hơn nữa, từ bỏ hoặc làm suy yếu các thể chế và thỏa thuận then chốt. Nhiều tổ chức quốc tế, từ Liên hợp quốc, Ngân hàng thế giới cho tới WTO, là những thể chế mà Mỹ đứng ra tạo dựng và dẫn dắt, đã thiết lập các nguyên tắc được công nhận rộng rãi về tự do hàng hải, tính minh bạch, giải quyết tranh chấp và thương mại. Việc rút lui khỏi những thể chế đó tạo ra sự tự do và tính linh hoạt trong ngắn hạn với cái giá phải trả là ảnh hưởng của Mỹ trong dài hạn, cũng như cho phép Bắc Kinh định hình lại những chuẩn mực và mở rộng ảnh hưởng của chính mình trong các tổ chức này.
Mỹ cần quay trở lại cách tiếp cận coi các liên minh là tài sản đáng để đầu tư chứ không phải là gánh nặng cần cắt bỏ. Khi chưa có được tiềm lực đáng kể để xây dựng mạng lưới các đồng minh có năng lực của riêng mình, Bắc Kinh chẳng trông mong gì hơn việc Mỹ lãng phí ưu thế lâu dài này. Tạo lập trạng thái chung sống được nhận thức rõ ràng với Trung Quốc sẽ gây ra nhiều thách thức trong bất kì điều kiện nào, nhưng đó sẽ là nhiệm vụ bất khả thi nếu Mỹ không có sự trợ giúp. Nếu thực sự muốn củng cố sự răn đe, thiết lập một hệ thống thương mại công bằng và có đi có lại hơn, bảo vệ các giá trị phổ quát và xử lý các thách thức toàn cầu, Mỹ không thể hành động một mình. Phải khẳng định rằng bất kì chiến lược nào của Mỹ muốn thành công đều phải bắt đầu cùng với những đồng minh của Mỹ./.
Kurt M.Campbell từng là Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ về Đông Á và Thái Bình Dương từ năm 2009 đến 2013. Jake Sullivan từng là Cố vấn An ninh Quốc gia cho Phó Tổng thống Hoa Kỳ vào năm 2013-2014 và hiện là thành viên cấp cao tại Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế. Bài viết được đăng trên trang Foreign Affairs.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét