Chánh Nguyễn
Thế giới qua hơn nửa thế kỷ nay
đã chứng tỏ rằng bất bạo động là phương pháp đấu tranh duy nhất thực sự hữu hiệu
trong việc xây dựng nền tảng dân chủ. Có nhiều lý do để tránh mọi hình thức bạo
động. Thực tiễn đơn giản nhất là khi chính quyền độc tài nắm hết mọi công cụ của
bạo lực thì chiến thắng bằng bạo động là chuyện không tưởng. Hy vọng có được hổ
trợ vũ lực từ bên ngoài trong hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam cũng hoang đường
không kém. Chắc chắn không mấy ai nhân danh dân chủ mà lại cổ súy bạo động chống
chính quyền. Nhưng đấu tranh bất bạo động hữu hiệu cần phải theo một số nguyên
tắc mà hầu như ít ai chú ý.
Tranh chấp dưới bất cứ hình thức
nào cũng nhằm tạo ra áp lực buộc đối phương phải nhượng bộ. Tranh đấu bạo động
thì áp lực chính là quân sự. Trong những cuộc đình công bất bạo động ở xứ tự do
thì áp lực chính là kinh tế. Tạo ra áp lực cho đối phương cũng như chống lại áp
lực của đối phương đều đòi hỏi phải trả giá. Bên thua cuộc là bên không đủ sức
trả cái giá cuộc đấu tranh đòi hỏi. Người đấu tranh dân chủ phải tự hỏi họ sẽ tạo
ra được áp lực gì đối với chính quyền độc tài và sẽ phải trả giá như thế nào.
Hô hào xuống đường khi không có câu trả lời thấu đáo thì chỉ là một hành động bồng
bột khó đem lại kết quả như ý muốn.
Phong trào Occupy Wall Street dù
đã lan rộng khắp các thành phố lớn ở Mỹ với sự tham dự và ủng hộ đông đảo của
thanh niên vẫn không đi đến đâu vì không tạo ra áp lực gì (và cũng không có những
đòi hỏi thực tiển). Ngược lại những cuộc biểu tình của Đảng Trà (Tea Party) đã
có ảnh hưởng mạnh trên chính trường Mỹ vì áp lực của lá phiếu. Trong một nước
toàn trị thì áp lực của lá phiếu, hay ý dân, là một điều vô nghĩa. Vì thế mà
hành động xuống đường biểu tình tự nó không phải là một hình thức tranh đấu dân
chủ hữu hiệu trong mọi thời điểm. Điển hình là sự bất lực của thanh niên Hồng
Kông trước những áp đặt của Bắc Kinh. Dù họ có ý thức chính trị cao và đã chuẩn
bị công phu nhưng vẫn không thể tạo ra áp lực đủ mạnh để buộc Bắc Kinh phải nhượng
bộ.
Bất phục tùng dân sự (civil
disobedience) có thể như cây gậy thọc vào cái bánh xe của chính quyền độc tài.
Gậy đủ lớn thì có áp lực đủ mạnh để làm hỏng bánh xe. Nhưng trong thực tế thì rất
khó có thể hô hào người dân tạo ra một phong trào bất phục tùng dân sự chống lại
chính quyền độc tài. Cái giá của hành động bất phục tùng là tù đày hay ngay cả
sinh mạng. Một cái giá quá cao mà bất cứ ở đâu, thời nào cũng chỉ có một thiểu
số nhỏ dám chấp nhận.
Xuống đường biểu tình, đình công,
bất phục tùng dân sự để tạo ra áp lực của cử tri, áp lực kinh tế, áp lực xã hội,
là những hình thức tranh đấu bất bạo động hữu hiệu với một chính quyền có lương
tâm. Nhưng dưới chế độ độc tài thì những hình thức tranh đấu này sẽ không tạo
ra áp lực gì và do đó sẽ thất bại như ở Hồng Kông (không đạt được mục đích là
có qưyền bầu cử thật sự) nếu những người tranh đấu dân chủ chỉ dựa vào chúng.
Chà đạp nhân quyền của người đấu
tranh bất bạo động, chính quyền độc tài cũng phải chịu sự phê phán của dư luận
quốc tế, sự tẩy chay của những nước văn minh. Nhưng lịch sử thế giới đã chứng tỏ
rằng đây là một cái giá mà mọi chế độ toàn trị sẳn sàng chấp nhận khi họ thấy cần.
Cuộc thảm sát ở Thiên An Môn năm 1989 là một ví dụ đẫm máu hùng hồn. Vì vậy mà
đấu tranh như thế thì phần chủ động sẽ luôn luôn nằm trong tay chính quyền, khó
mà thành công được.
Áp lực duy nhất sự đấu tranh bất
bạo động có thể tạo ra được trong một chế độ độc tài là một áp lực mà thoáng
nghe thì có vẻ mơ hồ nhưng lại là một áp lực hữu hiệu nhất, mạnh nhất. Đó chính
là áp lực của lương tâm. Lương tâm của ai? Lương tâm của người dân, lương tâm của
xã hội, lương tâm của những viên chức, bộ đôi, công an trong bộ máy chính quyền.
Rất có thể là lương tâm của chính những người đang cầm quyền sinh sát của chế độ.
Vai trò của “lương tâm” trong cuộc đấu tranh dân chủ là một vấn đề rất tế nhị.
Người đấu tranh dân chủ không thể ngây thơ, chủ quan, mà phải chấp nhận và suy
tính rằng chính quyền độc tài vốn không có lương tâm, sẽ không từ một thủ đoạn
nào để ngăn chặn quyền dân chủ. Nhưng đồng thời họ cũng phải thấy rõ rằng lương
tâm của mỗi người, ngay cả những cá nhân trong guồng máy độc tài, cũng không
bao giờ biến mất. Lương tâm con người, ngay cả những lương tâm bị che mờ vì
lòng tham và thù hận, chính là đối tượng đế chiến thắng của những người đấu
tranh dân chủ.
Một khi con người và xã hội cho rằng
những chính sách, những biện pháp hiện hành của chính quyền là “vô lương tâm”
thì cái chính quyền đó hoặc sẽ phải nhanh chóng thay đổi hoặc sẽ sụp đổ mà
không cần cái giá của nhiều hy sinh xương máu. Khi người lính của chính quyền
ngần ngừ tay súng, khi thượng cấp của anh ta trì hoãn lệnh bắn, khi những người
có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của chính quyền không muốn tiếp tục công việc..
thì chỉ cần một diễn biến nhỏ cũng có thể nhanh chóng đưa đến một sự thay đổi
chính trị sâu rộng. Rất có thể những tay lãnh đạo trong chính quyền độc tài
cũng sẽ nhận ra sự tỉnh thức của lương tâm xã hội để tiến hành cải cách thật sự
hòng tránh tai họa cho chính họ. Nhưng nếu không có một sự rung chuyển trong
lương tâm của những thành viên trong xã hội, thì đấu tranh dân chủ sẽ khó mà
thành công. Nếu không có áp lực đủ mạnh của lương tâm thì cái giá độc tài phải
trả khi ra tay chém giết là rất thấp so với cái giá xương máu của người đấu
tranh dân chủ.
Trong cuộc đấu tranh dân chủ này,
không có thành trì để chiếm đóng, không thể đánh bại binh đoàn của độc tài, chỉ
có thể xoay chuyển được lương tâm của xã hội. Vì thế mà đây không phải là cuộc
tranh đấu chống quân thù. Nhưng về phía chính quyền thì càng tạo ra được ấn tượng
của một cuộc chống phá bởi những “thế lực thù địch” thì càng dễ khiến xã hội thờ
ơ với phong trào đấu tranh dân chủ. Có thể vì không nhận ra bản chất và mục
tiêu thực tế của cuộc đấu tranh, nhiều người vẫn dùng những ngôn từ và hình thức
sáo mòn để đả kích chính quyền, trong đó có nhiều phần tử họ cần phải thuyết phục
và có thể thuyết phục được, như một kẻ thù để tiêu diệt. Dù vô tình, chính họ
đang tiếp tay cản trở tiến trình dân chủ của đất nước với cái tư duy, ngôn ngữ,
và hành động đã trở thành thói quen từ những cuộc đấu tranh bằng vũ lực của thời
xưa.
Để thành công, cuộc đấu tranh dân
chủ cho Việt Nam hôm nay phải có bản chất của một cuộc đấu tranh về tư tưởng, đấu
tranh để thuyết phục từng cá nhân trong xã hội rằng cuộc đời của họ, tương lai
con cháu họ, tương lai đất nước sẽ tốt đẹp hơn với những đòi hỏi cụ thể của những
người đang dấn thân tranh đấu. Tùy hoàn cảnh, quá khứ, và tâm hồn, có người đã
chọn con đường đấu tranh dân chủ, có người sẽ cảm nhận và ủng hộ, dù âm thầm,
và cũng sẽ có người, trong số những người đang được hưởng độc quyền và đặc lợi,
quyết chống mọi tiến triển dân chủ. Cho đến khi mà đa số người dân hiểu và đồng
tình ủng hộ những đòi hỏi cụ thể của phong trào dân chủ thì trọng tâm của cuộc
tranh đấu vẫn phải là sự thuyết phục quần chúng chứ không phải tổ chức những hoạt
động kêu gọi chống chính quyền. (Chính quyền sẽ có những vi phạm đòi hỏi một sự
phản đối mạnh như một cuộc biểu tình chẳng hạn. Nhưng người xuống đường cần phải
cân nhắc tùy theo vụ việc để thuyết phục thêm được quần chúng thay vì để lọt
vào cái bẩy “gây rối loạn, phá hoại đời sống” của chính quyền.)
Ngày mà bà con, bạn bè của những
người dấn thân cho dân chủ không hỏi tại sao làm thế, ngày mà họ ủng hộ cuộc đấu
tranh, dù chỉ là ngấm ngầm trong tư tưởng, ngày mà đa số những người chọn đứng
bên lề chỉ vì họ sợ, chỉ vì họ không thể hay không dám trả cái giá chống độc
tài chứ không phải vì bất đồng tình thì đó là ngày mà thành trì và súng đạn của
chính quyền độc tài sẽ trở thành vô hiệu dù bên ngoài vẫn rất hoành tráng. Đây
là lý do tại sao những cuộc đấu tranh dân chủ bất bạo động thành công đều có vẻ
như đã bùng phát đột ngột và nhanh chóng đạt được kết quả. Thật ra đó chỉ giai
đoạn kết thúc của một quá trình xoay chuyển lương tâm của xã hội đã thành công.
Vấn đề là làm thế nào để thành công.
Trước hết ta hãy điểm qua những
việc làm không có hiệu quả, nếu không nói là phản tác dụng trong việc thuyết phục
đa số quần chúng để có được một đất nước dân chủ. Một trở ngại lớn là sự chia rẽ
vì lịch sử, hay đúng hơn là vì sự đấu tố lịch sử theo cảm tính, của những người
đang cùng kêu gọi dân chủ. Lịch sử Việt Nam dĩ nhiên là phức tạp, bị bóp méo,
viết lại nhiều hơn lịch sử của những nước tự do. Tìm hiểu sự thật lịch sử, ngay
cả ở xứ tự do, vẫn là một việc làm đòi hỏi tinh thần khách quan và trình độ
nghiêm túc của các sử gia chuyên nghiệp. Khi những người không thể phân biệt
đâu là sử kiện, đâu là tin đồn, không thể đánh giá được sự khả tín và biện minh
của nhân chứng… mà lại hùng hục lên án hay tung hô theo cảm tính thì sẽ không
thuyết phục được ai. Đây là một hành động có thể đem lại hứng thú cho những người
vốn có cùng niềm tin nhưng vô dụng cho tiến trình dân chủ. Dù lịch sử có như thế
nào thì con đường cần đi trước mắt vẫn không thay đổi; và nếu những tệ nạn hiện
thời không đủ để rung chuyển lòng người thì sự thật lịch sử cũng chỉ là chuyện
cổ tích.
Sự xung khắc không đúng lúc giữa
những người cùng đấu tranh dân chủ cũng là một hành động phản tác dụng khác.
Dân chủ – quyền được lựa chọn của mọi người, mỗi người dân một lá phiếu – không
đòi hỏi người ta phải có ý kiến cụ thể như thế nào, mà chỉ đòi hỏi sự chấp nhận
quyền chọn lựa của người khác. Đây chính là mẫu số chung cho tất cả mọi hoạt động
đấu tranh dân chủ. Sự bất đồng ý kiến trong những vấn đề liên quan đến cuộc sống
hằng ngày là một điều không thể tránh khỏi, và cũng chính là một yếu tố làm xã
hội tiến bộ với thời gian. Những người đấu tranh dân chủ thường không có, không
cần có (và cũng không nên có) cùng chính kiến ngoài lý tưởng dân chủ, đặt quyền
chọn lựa của dân trên hết. Khi chưa có được quyền chọn lựa thì những tranh chấp
khác chỉ làm phân tán nổ lực đấu tranh đòi quyền dân chủ. Những khác biệt này,
dù quan trọng, vẫn là những vấn đề phải để hạ hồi phân giải, một khi đã có được
thể chế dân chủ. Đây là điều hiển nhiên đến nhàm trên lý thuyết, nhưng thực tế
thì bản chất con người vẫn có những đố kỵ, những tham vọng khiến ta khó mà bỏ
qua những khác biệt về quan điểm để cùng sát cánh. Rất may là thực tế cũng
không đòi hỏi mọi người mà chỉ cần một vài người có uy tín, đại diện tinh thần,
của những nhóm tranh đấu dân chủ khác nhau có đủ tâm trí để nói lên và làm theo
nguyên tắc thỏa hiệp dân chủ này.
Mắng chửi Cộng Sản một cách chung
chung cũng phản tác dụng. Gốc rễ chỉ là thể chế và bản chất con người. “Người Cộng
Sản” đã là một khái niệm vô nghĩa. Trong hàng ngũ Đảng viên và lãnh đạo hôm nay
có những kẻ đã bòn rút, trấn lột dân, những kẻ mà người Cộng Sản 70 năm trước hẳn
sẽ giết không tha. Và cũng trong hàng ngũ của những Đảng viên hôm nay, những kẻ
được hưởng quyền lợi của chế độ toàn trị lại có những người đứng lên, chịu trả
giá tù đày, để đòi cải cách, quyền dân chủ. Những người dùng một cái nhãn hiệu
đã lỗi thời để chửi rủa chung chung chỉ biểu lộ tâm trí cạn cợt, chỉ có thể
khích động hận thù, hoàn toàn vô ích trong cuộc đấu tranh bất bạo động. Chính
những người họ đang miệt thị, những cá nhân trong guồng máy chính quyền, là người
mà lương tâm sẽ quyết định tương lai dân chủ của Việt Nam.
Một đặc điểm của đấu tranh bất bạo
động, đấu tranh tư tưởng là sức mạnh của phong trào tùy thuộc vào sự minh bạch,
công khai của những người tranh đấu. Họ lên tiếng, họ chống đối đường hoàng
dõng dạc cho nhân quyền, cho lợi ích của xã hội, cho công lý… Họ không hành sự
lén lút, không tuyên truyền nặc danh. Trước những người như thế, đội ngũ an
ninh chuyên điều tra, đối phó với những hoạt động chống đối bí mật sẽ trở thành
vô dụng đến khôi hài, ngay cả đối với những người công an đang làm nhiệm vụ.
Đây cũng là bước đầu để chuyển hoá tâm tư họ. Dù trong hoàn cảnh đối nghịch, ít
người có thể nuôi lòng hận thù hay hằn học lâu dài khi đối phương rõ ràng là chống
đối để cải thiện, để xây dựng, không chống đối để tiêu diệt hay đập phá.
Diễn biến Thiên An Môn 25 năm trước
là một bài học đáng chú ý về khả năng thức tỉnh lương tâm của đấu tranh bất bạo
động cũng như cái giá độc tài chịu trả để giữ vững chế độ. Trong bảy tuần biểu
tình ôn hòa của sinh viên Bắc Kinh, người dân Bắc Kinh ngày càng ủng hộ họ. Những
sinh viên này chẳng nguyền rủa Mao Trạch Đông, chửi Đảng, mà chỉ đòi tự do ngôn
luận, thêm quyền dân chủ, dẹp tham nhũng… Ai có lương tâm cũng phải đồng tình,
bất kể chính kiến. Đặng Tiểu Bình và đồng bọn không dám tin vào sự trung thành
của những binh đoàn đang trấn thủ Bắc Kinh, những người lính đã thấy, đã nghe
những sinh viên này trong mấy tuần qua. Lãnh đạo Bắc Kinh đã hoán chuyển những
binh đoàn ở xa về để trấn áp. Những người lính này thật lòng nghĩ rắng nhờ có Đảng
và lãnh tụ mà đời sống họ khá hơn, nước Trung Hoa được ngẩn mặt với thế giới. Đối
với họ những thanh niên đang tranh đấu chỉ là quân “phản động”. Vì thế họ đã
không ngần ngại giày xéo khi có lệnh. Hoàn cảnh Việt Nam và thế giới hiện nay
thuận tiện hơn nhiều cho cuộc đấu tranh tư tưởng để xoay chuyển lương tâm một
cách rộng lớn.
Chính quyền Việt Nam ngày nay có
lẽ cũng không thua kém gì Đặng Tiểu Bình và đồng bọn về thủ đoạn chống dân chủ.
Những người đấu tranh có nhiều ảnh hưởng chắc chắn phải trả giá. Họ đã và sẽ phải
chịu cảnh tù đày. Nhưng tiếng nói của họ dần dà sẽ có được sự ủng hộ, dù là thầm
lặng lúc đầu, của đa số quần chúng. Một chính quyền có lương tâm không thể có
tù nhân lương tâm. Và những tù nhân lương tâm chính là tiếng chuông mạnh nhất để
thức tỉnh lương tâm xã hội, lương tâm thế giới. Tiếng chuông của Nelson
Mandela, Aung San Suu Kyi đã đem lại những thay đổi lớn cho nền dân chủ của nước
họ (dù hiện vẫn có nhiều trở ngại). Những người chịu trả cái giá tù đày để nói
lên điều cần nói, những người tù lương tâm, bao giờ cũng là nổi lo lớn nhất của
độc tài. Chính quyền Việt Nam đã nghĩ ra được một giải pháp để tạm thời đối
phó. Họ sẽ “xuất khẩu” những ai đã tạo ra ảnh hưởng lớn với lòng can trường dám
chấp nhận ngục tù. Tiếng nói của người sống trong một xã hội phồn thịnh, tự do
sẽ không có cái hùng tráng đầy sức thuyết phục của tiếng nói bị chận bóp vọng
ra từ trong tù. Nhưng thủ đoạn này sẽ không thể làm ngưng tiếng chuông đánh thức
lương tâm vì Việt Nam xưa nay vẫn có những người can trường chịu ngồi tù cho lý
tưởng.
Mức độ lên tiếng kêu gọi cải cách
dân chủ tùy vào tâm tư và hoàn cảnh của mỗi người, tùy vào cái giá họ sẳn sàng
chịu trả để có tiếng nói công khai. Nhưng dù ít hay nhiều, những tiếng nói ấy,
nếu tránh được những tranh cãi luẩn quẩn đưa ra ở trên, sẽ có tác dụng thay đổi
cách nhìn và xoay chuyển lương tâm của xã hội. Trong cuộc tranh đấu này, “chiến
trận” không chỉ là lúc đối đầu với công an, an ninh mà chính là trong những lúc
đối thoại, tâm tình với bà con, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm… Dù muốn hay
không, tác phong, nhân cách, tâm hồn, tính tình của những người đấu tranh dân chủ
đều là những yếu tố thuyết phục (hay gây phản cảm) cho phong trào dân chủ. Để
có thể “chiến thắng”, người đấu tranh dân chủ phải tránh gây ra cảm giác, dù
đúng hay sai, là họ chống đối chính quyền vì hận thù hay vì tham vọng cá nhân
hơn là vì quyền lợi chung của xã hội.
Người chọn dấn thân trên con đường
đấu tranh dân chủ lúc nào cũng phải có một mục tiêu, một đòi hỏi cụ thể cho quyền
lợi trước mắt của người dân. Dân chủ – quyền chọn lựa của mọi người – tuy là mục
đích tối hậu nhưng cũng là một khái niệm trừu tượng đối với đa số dân. Khi một
số đông cảm thấy là đời sống kinh tế đã có nhiều tiến bộ so với mười, hai mươi,
ba mươi năm trước thì những lý luận trừu tượng khó làm rung động lòng họ. Những
người phê phán chống đối mà không đưa ra được một giải pháp thực tiển, nhất là
với ngôn từ và thái độ hằn học, sẽ dễ dàng bị dân coi thường. Tuy chế độ toàn
trị là gốc rễ của hầu hết những tệ nạn trong xã hội, thực tế đấu tranh dân chủ
hằng ngày cần phải tập trung vào những đòi hỏi thực tiển mà mọi người đều thấy
rõ sự lợi ích của chúng. Qua quá trình đấu tranh đòi hỏi những điều này, và phản
ứng của chính quyền, người dân sẽ cảm nhận cái giá trị và sự cần thiết của thể
chế dân chủ cũng như bản chất tệ hại của mọi chính quyền toàn trị. Để minh họa,
ta hãy tưởng tượng một phong trào có thể xảy ra trong thực tế như thế.
Mọi người, dân cũng như quan, đều
lên tiếng chống tham nhũng. Hãy phát động một phong trào bài trừ tham nhũng,
làm công khai những thu nhập của các quan lớn. Đây hẳn là một đòi hỏi rất hợp
lý và có ích lợi thực tiển. Thu nhập minh bạch của quan chức sẽ tạo thêm lòng
tin cho dân, làm quan thêm rạng rỡ – vàng thật không sợ lửa – và bớt gánh nặng
cho dân, cho công quỹ vì tệ nạn đục khoét, hối lộ. Không ai có thể chống đối
đòi hỏi này trên nguyên tắc. Trong thực tế thì đây là điều mà chính quyền độc
tài, lũng đoạn bởi tham quan, sẽ kiên quyết chống. Và đây cũng chính là dip để
người dân cảm nhận vai trò của thể chế và ủng hộ, dù thầm lặng, những hoạt động
dân chủ không bị ràng buộc bởi quá khứ, hay màu cờ, sắc áo. Đây chỉ là một ví dụ.
Có nhiều điều cụ thể như thế, trực tiếp liên quan đến đời sống hằng ngày, trước
mắt của người dân, những đòi hỏi không liên quan đến ý thức hệ hay quá khứ
chính trị, có thể tạo được sự ủng hộ rộng lớn để đem đến những cải cách dân chủ
thật sự.
Bạo hành của công an, hối lộ của
chính quyền địa phương, những tổ chức làm ăn gây thiệt hại cho xã hội, luật lệ
bất công, v.v… đều có thể là đề tài cho những phóng sự cụ thể, những nhận định
chính trị, những đòi hỏi mà đa số dân và ngay cả những Đảng viên có lòng yêu nước
đều ủng hộ như ta đã thấy. Nhưng thay vì chỉ đưa ra những lời chỉ trích chung
chung hay những kiến nghị, cần phải có những phóng sự chất lượng với những chi
tiết và nhân vật cụ thể để vạch trần bản chất vô liêm sĩ, một sự vô liêm sĩ phi
chính trị, của những người dùng quyền thế để bòn rút và che đậy tội lỗi. Trước
luật pháp, dù là luật pháp khập khiển hiện hành tại Việt Nam, thì đây vẫn là những
điều phạm pháp và những tên tội phạm đòi hỏi phải có sự xử lý và trừng phạt
thích đáng. Nhưng khi kẻ cướp lại vừa là quan tòa vừa là cảnh sát, hệ quả tất yếu
của chính quyền toàn trị, thì cách trả lời thường thấy sẽ là sự trấn áp những
phóng viên, những nhà báo nói lên sự thật và những người đòi công lý cụ thể cho
xã hội. Người dân sẽ nhìn những tay gian tham này và bộ máy chính quyền phục vụ
chúng với cặp mắt đầy khinh bỉ. Không có một biện minh chính trị nào, quá khứ lịch
sử nào có thể che lấp được cái bản chất xấu xa của những kẻ đã bị thoái hoá vì
quyền lực và dục vọng thấp hèn.
Trong xã hội hiện nay, chính quyền
đã không còn có thể hoàn toàn khống chế đời sống kinh tế của mọi người được nữa.
Sẽ có những phóng viên, nhà báo độc lập điều tra và phơi bày sự tham nhũng, những
đổi chác hại nước, hại dân, những sự bạo hành, phạm pháp của nhiều đại quan.
Chính quyền chỉ có thể đối phó bằng cách chà đạp nhân quyền của họ. Bố ráp, kết
tội, tống giam những người có dũng khí tìm hiểu và nói lên sự thật, phơi bày
cái ai cũng cho là xấu để cải thiện xã hội, thì không chỉ là một vi phạm nhân
quyền trắng trợn mà bản chất còn là một sự vô liêm sĩ, bất luận chính kiến và
thời đại, đáng khinh của bạo quyền. Những người anh dũng dám đứng mũi chịu sào
này chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của nhiều người, của cả thế giới, của ngay
chính những người thấp cổ bé họng trong guồng máy toàn trị. Khi cai ngục đã có
lòng kính trọng tù nhân thì thay đổi, cải cách thật sự chỉ còn là chuyện một sớm
một chiều mà thôi. Bước đầu tiên có lẽ là chính quyền sẽ phải chấp nhận và tôn
trọng quyền tự do ngôn luận, nền tảng của mọi hoạt động dân chủ. Chỉ cần một bước
đầu như thế là rất có thể sẽ làm cả hệ thống toàn trị phải nghiên ngã.
Tập đoàn lãnh đạo Việt Nam hẳn
cũng không phải toàn là những người u mê. Khi họ thấy lương tâm xã hội đã thay
đổi, nền tảng toàn trị đã rạn nứt, rất có thể chính họ sẽ nhanh chóng tiến hành
những cải cách cần thiết mà người dân đòi hỏi. Cuộc đấu tranh dân chủ như thế
có nhiều triển vọng đem đến những thay đổi sâu xa và tốt đẹp về chính trị, thể
chế, như từng xảy ra ở Đài Loan và Nam Hàn.
Đấu tranh như thế dĩ nhiên đòi hỏi
phải có những người dấn thân, chịu trả cái giá cá nhân rất cao, nhưng lại không
đòi hỏi quần chúng phải trả giá, không làm đời sống xã hội khó khăn hơn, dù tạm
thời. Đấu tranh như thế tuy vẫn rất cam go nhưng có sức thuyết phục, dễ đánh thức
lương tâm hơn tất cả những gào thét, nguyền rủa, hay kêu gọi người dân đứng lên
lật đổ Đảng và chính quyền Cộng Sản như ta vẫn thường nghe thấy trong 40 năm
qua. Đây chính là con đường đấu tranh dân chủ thực tiễn nhất. Thực tế hiện nay
cũng có những lợi điểm cơ bản khiến ta có thể hy vọng vào một tiến trình dân chủ
khả quan ở Việt Nam.
Người Việt không có những xâu xé
lâu đời vì chủng tộc hay tôn giáo. Cùng một tiếng nói chung, giao thông, liên lạc
đã không còn nhiều trở ngại về địa lý hay hành chánh, người Việt dễ có cùng
chung những giá trị về chân, thiện, mỹ khi không còn bị ràng buộc bởi ý thức hệ
và lòng hận thù. Từ trong lòng của chế độ, từ lớp người hoàn toàn trưởng thành
trong sự giáo dục một chiều, cứng nhắc của chế độ vẫn xuất hiện những người với
tài năng, khí phách và tâm hồn khiến hầu hết mọi người phải khâm phục. Bên cạnh
họ hẳn phải còn rất nhiều người cũng băn khoăn, mong muốn có được một đất nước
thịnh vượng. Ngay cả những người trong tập đoàn độc tài đang bị thao túng vì quyền
lợi và tham vọng cá nhân cũng không thể phủ nhận sự thật hiển nhiên đến nhàm về
vai trò cơ bản của pháp quyền và dân chủ. Tuy tệ nạn công lý rừng rú và nghị gật
vẫn còn nhiều, Việt Nam cũng đã có những cơ sở, dù hiện thời chỉ là hình thức
như phấn son tô điểm cho chế độ độc tài, để xây dựng một xã hội dân chủ. Ta đã
thấy những người đấu tranh dân chủ hiên ngang tranh luận với công an, bất phục
tùng trên căn bản pháp lý, và đưa đại quan ra tòa. Nếu ta có thể rũ bỏ được ý
thức hệ, nhãn hiệu, và hận thù – những tàn dư, dù là tàn dư sâu đậm của quá khứ
– để tập trung vào những thay đổi, đòi hỏi, chống đối để cải thiện xã hội,
chính quyền, và đời sống chung thay vì đập phá thì chắc chắn sẽ có được những
thành quả lớn trong tương lai gần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét