Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2014

Về văn học miền Nam 1954-1975 (2)

Cuối bài trước, tôi có viết: Một cuộc hội thảo về văn học miền Nam 1954-75 sẽ được tổ chức tại California  vào tháng 12 năm nay khá muộn màng nhưng, dù sao, cũng hơn là không có gì cả.
Ý niệm về sự muộn màng ấy, ở tôi, nổi rõ nhất là vào tháng 7 năm 2013, khi tôi sang California dự cuộc hội thảo về Tự Lực văn đoàn do nhật báo Người Việt tổ chức. Lần ấy, trong các cây bút nổi tiếng ở miền Nam trước đây, chỉ có Doãn Quốc Sỹ tham dự. Tuổi cao, sức khoẻ yếu, bước từng bước hơi chút lẩy bẩy lên khán đài, Doãn Quốc Sỹ vừa đọc vừa nói về nhà thơ Tú Mỡ, nhạc phụ của ông. Giọng ông vẫn sang sảng, đôi lúc dí dỏm, như một nhà giáo giàu kinh nghiệm. Nhưng sau đó, tôi biết được, hầu như tất cả con cháu ông ngồi nghiêm trang phía dưới đều… nín thở. Họ sợ ông quên giữa chừng. Họ sợ ông nói lạc đề. Họ sợ đủ thứ. Lý do của cái sợ ấy là hầu như ai cũng biết ông đang bị bệnh già, có lúc nhớ có lúc quên. Lãng đãng.
Ngồi nhìn Doãn Quốc Sỹ và nghe con cháu và bạn bè ông nói về ông như thế, tôi nghĩ đến những người vắng mặt trong hai ngày hội thảo. Như Nguyễn Mộng Giác, mới mất chưa đầy một năm trước đó. Như Nguyễn Xuân Hoàng, ở San Jose, muốn tham dự nhưng không thể bay về dự được. Vì bệnh. Và đặc biệt, Võ Phiến, người đáng lẽ không thể thiếu. Không phải vì Võ Phiến được nhiều người xem như một “tiên chỉ” của làng văn Việt Nam ở hải ngoại hoặc ít nhất ở California mà còn, chủ yếu còn, vì ông là một trong những người viết hay nhất về Nhất Linh giai đoạn sau năm 1954. Vậy mà ông lại không thể dự được. Lý do: sức khoẻ.
Nhớ, tôi gặp Võ Phiến lần đầu tiên là vào đầu năm 1989, khi tôi từ Pháp sang Mỹ tham dự một cuộc hội nghị về văn học Việt Nam ở Chicago. Lúc ấy, anh Nguyễn Mộng Giác rủ về California chơi. Con gái anh Giác ra phi trường đón. Trên đường về nhà, anh Giác đề nghị ghé thăm Võ Phiến. Thời gian ấy Võ Phiến còn đi làm, dáng dấp còn rất nhanh nhẹn. Suốt mấy tiếng đồng hồ, ông nói thao thao về chuyện văn chương nghệ thuật và về những người ông quen biết từ thời tiền chiến, như Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Chế Lan Viên và Lam Giang. Nhưng đến năm 2007, khi tôi quay lại California, thấy ông đã có vẻ mệt mỏi lắm rồi. Mệt, nhưng tâm trí ông vẫn còn tỉnh táo. Trong cuộc thảo về văn học Việt Nam ở hải ngoại được tổ chức tại toà soạn Việt Báo và đặc biệt, trong buổi ra mắt cuốn “Tuyển tập Võ Phiến” tại toà soạn Người Việt một ngày sau đó, ông vẫn phát biểu một cách mạch lạc, sắc sảo và duyên dáng. Đó hầu như là hai lần cuối cùng ông xuất hiện trước đám đông với tư cách một diễn giả. Những năm sau, mỗi lần gặp lại ông, tôi đều thấy ông yếu hơn một chút. Mang mặc cảm nặng tai và hay quên, ông co rút lại, né tránh hẳn các đám đông.  Giữa bạn bè thân, thật thân, ông thường lim dim im lặng, lâu lâu khẽ cười và lâu lâu than thở là mình hoàn toàn vô dụng rồi. Những lúc ấy, nhìn ông, tôi thấy thương vô cùng.
Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, trẻ hơn Võ Phiến gần 20 tuổi, cũng thay đổi sau mỗi lần gặp. Năm 2007, anh còn là một nhà văn trung niên tràn đầy sức sống, nhưng năm 2007, anh đã có dấu hiệu mệt mỏi. Những năm sau đó, lần gặp nào anh cũng than buồn và than mệt. Tháng 7 năm 2012, tôi và Hoàng Ngọc-Tuấn đi Mỹ, ghé San Jose, điện thoại rủ anh đi uống cà phê. Thoạt đầu, anh từ chối vì mới bị té giập xuống đất, mặt mũi còn sưng vù, rất ngại ra đường. Nhưng sau đó, anh vẫn đến. Một bên má anh còn bầm tím. Anh buồn thấy rõ.  Anh nói về cái chết và về cái hư không của cuộc đời. Chúng tôi an ủi, thậm chí, lái câu chuyện sang phía hài hước để anh quên. Thì miệng anh vẫn cười, nhưng ánh mắt của anh thì vẫn hiu hắt.
Cũng ở San Jose, ngoài Nguyễn Xuân Hoàng, còn có hai người cầm bút nổi tiếng khác: Hoàng Ngọc Biên và Huỳnh Phan Anh. Huỳnh Phan Anh thì tôi chỉ gặp một lần (không kể một lần khác, ở Việt Nam, trước đó), thấy có vẻ yếu, dáng đi đã liêu xiêu; lần sau, gọi điện thoại trò chuyện, anh than là yếu lắm rồi, chả muốn đi đâu ra khỏi nhà. Với anh Hoàng Ngọc Biên thì thân hơn. Những lần đầu, anh còn rất sôi nổi bàn chuyện thơ văn, nhưng sau, bị bệnh, phải nằm bệnh viện khá lâu, anh cũng yếu hẳn. Chúng tôi đến thăm, anh vẫn mừng rỡ nhưng trong giọng nói không còn vẻ hào hứng như trước.
Cứ thế, kể từ năm 2007 về sau, hầu như năm nào tôi cũng đi Mỹ, và lần nào cũng thấy số bạn bè văn nghệ lớn tuổi cứ thưa thớt dần. Dần dần. Những người còn lại thì cũng yếu dần, yếu dần.
Tôi tưởng tượng: nếu cuộc hội thảo về văn học miền Nam được tổ chức muộn thêm vài năm nữa, con số những người đáng lẽ phải tham dự chắc là sẽ ít hẳn đi. Những nhân chứng, hơn nữa, những tác tố tạo thành nền văn học ấy sẽ vắng dần. Vắng dần.
Lúc ấy, tổ chức hội nghị, chắc là buồn lắm.
**
THÔNG BÁO
HỘI THẢO VỀ VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975

Trong hai mươi năm, từ 1954 đến 1975, văn học Miền Nam đã đạt được nhiều thành tựu lớn không những trong lãnh vực sáng tác mà còn trong các lãnh vực dịch thuật, phê bình, lý luận và nghiên cứu. Tiếc, sau khi chiến tranh kết thúc, những người cầm bút nếu không bị bắt bớ thì cũng bị cấm hoạt động, sách báo nếu không bị tiêu hủy thì cũng bị cấm lưu hành, các thành tựu nếu không bị xuyên tạc và bôi nhọ thì cũng bị vùi vào quên lãng. Một số cây bút ở hải ngoại đã tìm cách để phục hồi nền văn học ấy nhưng tất cả đều là những nỗ lực cá nhân. Một cuộc hội thảo về nền văn học ấy, do đó, là một điều vô cùng cần thiết.
Không những cần thiết, nó còn khẩn thiết. Hiện nay, tất cả những cây bút tài hoa và có nhiều đóng góp nhất vào nền văn học Miền Nam trong giai đoạn 1954-75, nếu còn sống, đều đã luống tuổi. Thời điểm này hầu như là cơ hội cuối cùng để nhiều người trong họ có thể lên tiếng về nền văn học do chính họ góp phần xây dựng.
Nhận thức sự cần thiết và khẩn thiết ấy, hai nhật báo Người Việt và Việt Báo cùng với hai tờ báo mạng về văn học Tiền Vệ và Da Màu sẽ cùng nhau tổ chức một cuộc hội thảo về văn học miền Nam 1954-1975 tại Little Saigon, California, Hoa Kỳ trong hai ngày 6 và 7 tháng 12 năm 2014.
Cuộc hội thảo sẽ nhắm vào các mục tiêu chính:
  1. Cố gắng nhận diện một số đặc điểm nổi bật nhất trong văn học Miền Nam.
  2. Đánh giá lại những thành tựu chính của văn học Miền Nam trong toàn cảnh văn học Việt Nam nói chung.
  3. Tìm hiểu, phân tích và đánh giá các chính sách đối với văn học Miền Nam của chính quyền Việt Nam sau năm 1975.
  4. Tìm hiểu, phân tích và đánh giá các nỗ lực duy trì và phục hồi văn học Miền Nam của các tác giả hải ngoại.
  5. Tưởng niệm một số cây bút tài năng đã qua đời (có người qua đời trong lao tù hoặc ngay sau khi ra khỏi trại tù).
Nhắm đến các mục tiêu trên, đề tài hội thảo sẽ bao gồm một số khía cạnh chính:
  1. Sinh hoạt văn học Miền Nam (điều kiện sáng tác, quan hệ giữa văn học và chính trị, giữa Việt Nam và thế giới, v.v…)
  2. Phân tích một số thành tựu, đặc điểm và hiện tượng nổi bật nhất (kể cả hiện tượng các cây bút nữ hoặc các cây bút miền Nam cũng như các cây bút trong quân đội; các tạp chí văn học & các giải thưởng) của văn học Miền Nam.
  3. Nhìn lại văn học Miền Nam trong toàn cảnh văn học Việt Nam hiện đại
  4. Tìm hiểu các chính sách của nhà cầm quyền Việt Nam sau 1975 đối với văn học Miền Nam (tác giả & tác phẩm)
  5. Tìm hiểu các nỗ lực cứu vãn và phục hồi các tác phẩm văn học Miền Nam ở hải ngoại sau 1975. http://www.voatiengviet.com/content/ve-van-hoc-mien-nam-phan-hai/1965543.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét