Miến Điện trong mắt ai
Tháng 3 năm
2011, sau hơn bốn thập niên cầm quyền, chế độ quân nhân tại Miến Điện
lùi bước trước nguyện vọng dân chủ của nhân dân Miến. Tuy xuất xứ từ
quân đội nhưng ông Thein Sein là vị tổng thống dân sự đầu tiên đã
đặt nền móng cho những cải cách chính trị đáng ngạc nhiên cho đất nước
ông. Những nền móng đó lúc đầu gây tranh cãi và nghi ngờ hơn là tin
tưởng. Nhưng với thời gian, những cải cách ấy càng ngày càng trở nên sâu
rộng. Vị thế của Miến Điện được nâng cao trên trường quốc tế qua việc
tham chính của các thành phần đối lập, vốn là kẻ thù không đội trời
chung của chế độ dưới thời tướng Than Shwe. Từng bước, tù chính trị được
thả, tự do báo chí được khôi phục, kinh tế bắt đầu hồi phục khi các
lệnh cấm vận khắc nghiệt được bãi bỏ.
Quan trọng hơn cả, ảnh
hưởng của láng giềng Trung Quốc một thời đè nặng lên kinh tế, chính trị
của đất nước này lần lượt bị đầy lùi trong êm thấm. Quan hệ Miến – Hoa
một thời nồng ấm ở Châu Á khi chỉ trong hai năm 2010 đến 2011, “đầu tư
từ Trung Quốc vào Miến Điện đã vượt mức 12 tỷ đôla, gấp 8 lần tổng vốn
đầu tư của Trung Quốc vào nước này trong thời điểm từ 1988 tới 2009”,
theo thống kê của báo JETRO của Nhật.
Chuyện gì đã xảy ra?
Bài báo “China didn’t see this coming” (Điều Trung Quốc không lường
trước) của cây bút Chris Horton ngày 19/3/13 trên Thealantic.com cho
thấy sự xích lại gần Trung Quốc không phải là ngẫu nhiên giữa hai quốc
gia có một đường biên giới chung khá dài này. Bên cạnh đó, thế lực kinh
tế của một lớp di dân người Hoa lâu đời cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự
mở rộng quan hệ giữa Miến Điện và Trung Quốc.
Sau năm 1988, một
năm đẫm máu với các cuộc biểu tình của sinh viên, thanh niên, sư sãi và
các tầng lớp dân chúng khác bị chế độ quân phiệt đàn áp khốc liệt, Miến
Điện bị cấm vận ngặt nghèo. Từ một quốc gia giàu có trước đây có số
lượng xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, nay trở thành một nền kinh tế lạc
hậu, èo uột và chính trị bị cô lập. Miến Điện đã tìm đến với Trung Quốc
như một vị cứu tinh, một chỗ dựa vững chắc để tồn tại, bất chấp mọi áp
lực đòi hỏi dân chủ, tự do từ phía người dân.
Để tìm kiếm viện
trợ kinh tế trong thời gian này, Hội đồng Khôi phục Trật tự và Luật pháp
Liên bang của Miến Điện đã cử Phó Chủ tịch Than Shwe sang Trung Quốc.
Tháng 5 năm 2011, Tổng thống Thein Sein ký với Chủ tịch Trung Quốc Hồ
Cẩm Đào một Hiệp ước hợp tác chiến lược, đánh dấu cao điểm của quan hệ
hai nước tuy không “môi hở răng lạnh” nhưng rõ ràng là đầy triển vọng
tốt đẹp. Đương nhiên các tầng lớp lãnh đạo Miến Điện phải chấp nhận sự
hiện diện của Trung Quốc trong mọi lãnh vực kinh tế, chính trị để đổi
lấy sự sống còn của chế độ càng ngày càng bị người dân xa lánh.
Nhưng thật bất ngờ khi vào tháng 9 năm 2011, Miến Điện đình chỉ dự án
đập Myitsone trị giá 3,6 tỷ đôla của Trung Quốc tại bang Kachin, đông
bắc Miến Điện dù công trình này đang thi công. Tổng thống Thein Sein đã
giải thích lý do của quyết định này là “do ý muốn của người dân Miến
Điện phải được tôn trọng”. Ít ai được biết nếu công trình này hoàn thành
thì 90% lượng điện sẽ chuyển về Trung Quốc!
Lần đầu tiên lãnh
đạo Miến Điện đã đề cập tới “ý dân” như một mệnh lệnh không thể chối bỏ.
Điều này cho thấy giòng chảy của đấu tranh ôn hòa bất bạo động đã thành
công. Mối quan hệ gắn bó giữa hai nước Miến – Hoa bắt đầu có sự rạn nứt
trầm trọng và Miến Điện tỏ ra không còn muốn tiếp tục nằm trong vòng
tay của Bắc Kinh như lâu nay.
Trong tháng 6/13, đài RFI đưa tin
theo một nhóm chuyên gia của tổ chức Asia Society, một định chế tư vấn
tại Mỹ "chính quyền Miến Điện đang có kế hoạch đàm phán lại hàng tỷ đô
la hợp đồng trong lãnh vực khai thác tài nguyên, áp đặt các tiêu chuẩn
môi trường và bài trừ nạn tham nhũng. Với kế hoạch cải tổ này, sau hàng
thập kỷ được tự do tung hoành tại Miến Điện dưới thời tập đoàn quân sự,
các công ty của Trung Quốc có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề nhất”. Các
thương nhân Trung Quốc từ nay sẽ không còn là những người tha hồ bòn rút
tài nguyên khoáng sản của Miến Điện và tiếp tay làm giàu cho giới cầm
quyền bản xứ nữa.
Trên trường quốc tế, sự xuất hiện của lãnh tụ
đối lập Aung San Suu Kyi và của chính Tổng thống Thein Sein ở Hoa Kỳ và
Châu Âu đã khiến cho niềm tin của thế giới vào cuộc cải cách kinh tế -
chính trị tại Miến Điện tăng cao. Cuộc viếng thăm của tổng thống Barack
Obama vào tháng 11 năm 2012 đã nâng cao vị thế của ông Thein Sein và của
cả lãnh tụ Liên đoàn vì Dân chủ Aung San Suu Kyi. Hình ảnh của một Miến
Điện độc tài khắc nghiệt từ từ được gỡ bỏ và luồng gió hồi sinh của một
nền dân chủ được trân trọng đón nhận như một phép lạ.
Mới đây,
từ 14/7/2013 Tổng thống Thein Sein đã thực hiện một chuyến công du Âu
Châu lần thứ hai. Lần này ông đến thăm Anh và Pháp là hai nước lớn có
tiếng nói quan trọng trong Cộng Đồng Châu Âu. Để thúc đẩy quá trình cải
tổ tiến lên, sự tìm kiếm hậu thuẫn chính trị, kinh tế đối với Miến Điện
là điều hết sức cần thiết. Do vậy, trong một bài diễn văn sau khi hội
kiến với thủ tướng Anh Cameron, Tổng thống Thein Sein đã tuyên bố:
"Trước cuối năm nay, sẽ không còn tù nhân lương tâm nào ở Myanmar
nữa". Ông nói thêm rằng “một ủy ban đặc biệt đang xem xét tất
cả các trường hợp tù chính trị”.
Lời tuyên bố từ một vị
đứng đầu nhà nước Miến Điện được công luận quốc tế đón nhận trong tin
tưởng về chiều hướng đi lên càng ngày càng vững chắc của một cuộc cải
cách sâu rộng từ hai năm nay. Vì đây không phải là lần đầu tiên mà đã
nhiều lần, tù nhân lương tâm ở Miến Điện được thả sau khi lãnh tụ đối
lập Aung San Suu Kyi tự do. Nó đánh dấu một bước ngoặt lớn cho sự hoà
nhập ngoạn mục vào cộng đồng dân chủ thế giới của một đất nước từng sống
những năm dài dưới bàn tay sắt của chế độ độc tài khắc nghiệt nhất nhì
Châu Á.
Thận trọng nhưng đầy quyết tâm, chính phủ dân sự Thein
Sein đã khôn khéo thực hiện một tiến trình cải cách 7 bước thực sự mang
lại hòa giải dân tộc, mà đỉnh cao là cam kết “thả toàn bộ tù chính trị
trước cuối năm nay”. Cam kết này cho thấy chiều hướng cải cách ở đất
nước này là không thể đảo ngược.
Biết đặt quyền lợi đất nước
lên trên quyền lợi cá nhân, các tướng lãnh Miến Điện một thời cai trị
sắt máu đã kịp thời quay về với dân tộc, đồng hành cùng thế giới dân chủ
đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo lạc hậu.
Trong thời điểm
hiện nay, những người Việt Nam còn quan tâm đến sự mất còn của đất nước
mình, khi nhìn về Miến Điện không khỏi bùi ngùi so sánh…Một Miến Điện tự
tháo gỡ ách độc tài, thoát vòng kềm toả của Trung Quốc để xây dựng lại
đất nước trong sự tôn trọng dân chủ và nhân quyền. Một Việt Nam, sau khi
được Mỹ bỏ rào cản cấm vận, được cả thế giới và các định chế tài chính
quốc tế hỗ trợ mạnh mẽ với hy vọng thấy một Việt Nam thực sự đổi mới sau
chiến tranh.
Nhưng cho tới nay, Việt Nam vẫn là một nhà nước
vi phạm nhân quyền trầm trọng nhất, là kẻ thù của internet trong nhiều
năm, là nước bắt bớ và bỏ tù những người bất đồng chính kiến nhiều nhất
và nặng nhất, đồng thời cũng là đất nước công khai tham nhũng dữ dội
nhất. Sự lạm dụng pháp luật của một nhà nước luôn tự hào là “nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa” càng ngày càng mang đậm tính áp bức thật
nặng nề đối với mọi thành phần dân tộc yêu nước.
Trong suốt
nhiều thập niên liền, tập đoàn lãnh đạo Việt Nam tiếp tục thần phục
Trung Quốc như một chư hầu trung thành, tiếp tục chính sách biến Việt
Nam thành một bộ phận trong đại gia đình Trung Quốc…Họ bất chấp đất đai
của tổ tiên mất dần vào tay Bắc Kinh, chăm chỉ đàn áp những ai có thái
độ chống Tàu.
Vì vậy, trông chờ Việt Nam tiến hành một cuộc cải
cách chính trị từng bước như Miến Điện thật là một điều mơ hồ. Vì chưa
bao giờ những người cộng sản Việt Nam nghĩ là họ sai lầm và cần sửa đổi,
cũng như chưa bao giờ họ tỏ ra quan tâm đến quyền lợi đất nước và nhân
dân. Họ có chăm lo, nhưng chỉ chăm lo cho sự tồn tại và túi tham vô đáy
của các quan chức đảng!
Quân đội Miến Điện có thể quay lại với
nhân dân vì họ xuất phát từ nhân dân. Nhưng một đảng lãnh đạo phát xuất
từ Quốc tế Cộng sản như đảng CSVN thì sự “trở về” của họ phải đồng nghĩa
với sự cáo chung của đảng.
Miến Điện trong mắt ai, vui cho nhân dân Miến mà buồn cho ai?
Ngô Đình Thu
Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013
Vụ xử án một giáo viên dạy văn
Tháng 7 21, 2013
Nguyễn Mạnh Tường
Trong đoạn
trích sau đây, luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) thuật lại lời đối
đáp giữa chánh án và bị cáo ở một vụ xử án mà ông cho là “quái lạ duy nhất được biết trong lịch sử ngành tư pháp văn minh ngày nay“. Theo lời kể của ông, “sau
khi tiếp quản Hà Nội, các lãnh đạo cao cấp đã ra lệnh để tòa kết án một
giáo sư dạy văn đã đầu độc tâm hồn sinh viên vì đã giảng dạy tác phẩm
có tên là ‘Nỗi cô đơn’ (L’Isolement) của nhà văn người Pháp Lamartine“.
Vị quan tòa này đồng thời là Tổng Thư kí Đảng Xã hội, phân bộ Hà Nội,
ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bị cáo là
một giảng viên đại học tại Hà Nội, không đi theo kháng chiến. Ông bị
tuyên án 4 năm tù. Đó là năm 1954.
Sáu mươi năm sau, không ai ở Việt Nam có thể bị tống giam vì giảng dạy Lamartine nữa. Đuổi một luận văn thạc sĩ về một nhóm thơ ngoài luồng
khỏi môi trường hàn lâm chính thống là thành tích oanh liệt nhất mà các
vị chánh án văn chương thời nay có thể đạt được. Dù sự ngu xuẩn và giáo
điều thời nay vẫn giống hệt sự ngu xuẩn và giáo điều thời xưa, tôi tin
rằng chính các vị này cũng không muốn bánh xe lịch sử quay lùi.
Phạm Thị Hoài
_____________
Chánh án: Bị cáo! Ông
có nhận thấy là ông có tội là đã dạy cho thanh niên của chúng ta một
loại triết lý đầy thê lương, mất niềm tin, bi quan, trong khi Đảng Cộng
sản của chúng ta được giao phó trách nhiệm tuyên truyền cho sự lạc quan,
hy vọng và vui sống?
Bị cáo: Thưa ngài chánh
án, làm sao tôi biết được là Đảng Cộng sản đang dạy về một cuộc sống
đầy niềm vui, hy vọng và lạc quan? Theo chỗ tôi biết, những người làm
việc cho chế độ cũ được chính phủ kháng chiến giữ lại làm việc chưa bao
giờ học hay đọc bất kỳ ở đâu là Đảng Cộng sản đã dạy những điều như thế.
Ngay cả nếu điều đó có thật, tôi cũng ngại rằng một nền giáo dục như
thế khó mà đạt được kết quả. Thực vậy, lãnh vực cảm xúc không phải là
đối tượng nằm trong phạm vi quyền hạn của thế quyền. Những gì xảy ra
trong nội tâm của con người nó không biết về những qui luật về logic và
lý lẽ, những ràng buộc về luật lệ, công lý và ngay cả về đạo đức. Một
cảm xúc được hình thành, lớn lên, tàn phai rồi biến mất hay tự mình biến
thể tùy theo những thôi thúc, kích động hay những tác động bởi thế giới
bên ngoài và tùy theo cá tính chủ quan của con người trong một nền luân
lý, nếu tôi có thể nói thêm về nó, là có liên quan đến con người khi
mỗi người thu nhận hay gạt bỏ những gì đến từ môi trường chung quanh
theo cách riêng của họ. Đây là lãnh vực mà quyền lực muốn áp dụng những
điều răn dạy để chứng minh niềm kiêu hãnh của mình thì cũng sẽ buông tay
chịu thua. Nhà chính trị có thể mong muốn mang lại cho nhân dân hy
vọng, niềm lạc quan và vui sống. Nhưng việc làm không đi đôi với lời
nói, nếu những thực tiễn không đi theo những lý thuyết trừu tượng thì
chẳng có chuyện gì xảy ra ngoại trừ chuyện làm phù thuỷ bắt ma! Hy vọng
không thể có nếu không có lý do nào để hy vọng và cũng chẳng có gì để mà
hy vọng. Lạc quan và vui sống sẽ thấm vào lòng người khi mà ở đâu cũng
có trật tự xã hội và phồn vinh, có tối thiểu tự do và có những quyền mà
một xã hội loài người văn minh đòi hỏi phải có. Người ta có thể thành
điên khùng như lão Don Quichotte khi bị tay Dulchinée mặt mày nhăn nheo,
miệng mồm không một chiếc răng lừa phỉnh. Một người trí thức, nhỏ nhoi
như tôi, không thể chấp nhận theo đường lối của Đảng Cộng sản, một đường
lối tạo dựng bằng hy vọng, lạc quan và vui sống. Nó chỉ là một điều
mong muốn mà sự thành công là tùy thuộc Đảng Cộng sản. Lời buộc tội duy
nhất đưa tôi tới trước vòng móng ngựa ô nhục này không có một cơ sở nào
đứng vững. Tôi cho rằng tôi không có tội là đã làm hại đến một đường lối
chính trị mà nói một cách bình thường và đúng đắn là không hiện diện.
Ngoài ra, tôi sẽ rất vui nếu được biết là dựa trên điều khoản nào của
luật pháp, những điều mà chưa bao giờ có, để các ông kết án tôi trước
toà?
Chánh án: Chúng ta đừng
chơi nhau trên chữ nghĩa, ném vào nhau những điều này nọ của bộ Luật
Hình sự. Sự việc đã hiển nhiên. Có hay không có việc ông giảng dạy cho
sinh viên tác phẩm Cô đơn (L’Isolement) của tác giả Lamartine
và ca tụng nhà thơ này? Có hay không có việc ông tán tụng những vần thơ
chán chường, mất hy vọng và bi quan yếm thế và hậu quả là đầu độc tâm
hồn của giới trẻ đã nghe theo tiếng gọi của Đảng Cộng sản của chúng ta
mà đứng lên muôn người như một để xây dựng lại nền Tự do, Độc lập và Tự
hào Dân tộc?
Bị cáo: Thưa ngài, tôi
không học luật, nhưng bất cứ người trí thức nào cũng đều hiểu là muốn
kết án ai đều phải dựa vào một hay nhiều điều Luật Hình sự định rõ tính
chất và những điều kiện để cấu thành tội. Hơn nữa họ cũng biết là chính
trị và luật là hai lãnh vực không giống nhau, giống như ước mơ và sự
thật. Mơ ước là điều cho phép nhà chính trị làm khi mà những việc làm
của họ là nhắm tới tương lai, nhưng luật là được xây dựng vững chắc trên
những cơ bản vững chắc, của hiện tại và cụ thể vì nó hoạt động trong
hiện tại để mà duy trì và xây dựng nên một xã hội phù hợp với ước vọng
của mọi người. Mọi lẫn lộn giữa mơ và thực, giống như trường hợp giữa
chính trị và luật, là một bước nhảy lùi về quá khứ hàng thế kỷ.
Lời buộc tội giờ đây có chút thay đổi.
Tôi không phê phán đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản, nhưng tôi ca
tụng một nhà thơ mơ mộng, biện hộ cho tư tưởng chán chường, thất vọng và
bi quan, tôi tự nhắc với tôi là người trí thức có tiếng tăm không làm
chuyện ca tụng bất cứ ai, biện hộ cho bất cứ người nào. Hai từ ngữ đó
phải được lấy ra khỏi trong mọi lời lẽ buộc tội: đó là một sự lạc đề
không đúng với ý nghĩa chính thức của hai từ đó. Có thể nói một cách
chính đáng, đây là một hành động hạ nhục và xúc phạm đến lòng tự trọng
của người trí thức. Ngay khi đang lúc tán dương, người trí thức tự kềm
chế mình để không bị bất ngờ vì tán dương rởm và luôn luôn giữ một sự dè
dặt nào đó. Nụ cười và thái độ quỳ lạy không nằm trong nghề của họ, mà
làm vũ khí của những người đã bán rẻ lòng tự trọng để chắt mót được
những lợi lộc tồi tàn. Tôi xin nhắc lại: tôi không tán dương một ai,
ngay cả đó là người được mọi người ca tụng. Tôi không đứng ra bào chữa
cho một chủ thuyết nào, ngay cả khi có hàng triệu người theo nó và ca
tụng nó. Không, tôi chỉ phân tích, giải thích, cố gắng làm cho sinh viên
hiểu cái trạng thái tình cảm mà không một kẻ độc tài nào, không một chế
độ độc tài nào có thể xoá bỏ, khi mà tác phẩm ấy đã có mặt hơn một thế
kỷ nay. Chính trị có thể thực hiện quyền lực của mình ở hiện tại, đôi
khi trong tương lai, nhưng cũng phải chấp nhận là đối với quá khứ thì
không thể làm được gì.
Vì vậy tình cảm mơ mộng, một trạng thái
của tâm hồn, là chuyện đã có từ lâu, nếu ngài cho phép tôi có ý kiến, là
mọi người đều có thể chứng minh đó là một điều chân thành, con người ai
cũng liên tục mơ mộng cho đến một tuổi nào đó và trong một hoàn cảnh
sống nào đó. Chỉ có những người cộng sản lão đời, những người khắc khổ
không còn nước mắt mới cho rằng không thể có những giọt nước mắt khốn
cùng của loài người, để tự nâng mình thành một loại siêu nhân.
Thưa ngài, tôi không tự biện hộ cho tôi,
tôi chỉ làm công việc trả lời sự kết án của ngài. Tôi đã biết trước số
phận của tôi: không có người nào bị Toà án Nhân dân xử mà bước ra khỏi
đó để về nhà. Tôi có thể nghe buổi xét xử. Tôi có thể đơn giản nhận tội
và nhờ sự khoan hồng của Đảng Cộng sản, và với những cố gắng cá nhân,
tôi hứa rằng tôi sẽ không từ bỏ một nỗ lực nào nhằm cải thiện và làm
trong sạch những suy nghĩ của tôi để đi đúng đường lối của Đảng Cộng
sản. Nhưng tôi mong mỏi rằng, ít nhất một lần, tiếng nói trung chính của
người trí thức được nghe đến, để cho những thế hệ ngày nay và mai sau
hiểu chính xác thế nào là một nền công lý cách mạng.
Nguồn: Trích phần II (“Mỏm đá Tarpéienne”), chương 2 (“Ông quan tòa Việt Nam”) trong cuốn hồi kí Kẻ bị mất phép thông công của luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997), nguyên bản tiếng Pháp Un Excommunié. Hanoi: 1954-1991: Procès d’un intellectuel, do Nguyễn Quốc Vỹ dịch và đăng trên Thông luận năm 2009.
http://www.procontra.asia/?p=2764
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)