Đầu tháng 9, 2010, nhân dịp ở trong nước tổ chức rầm rộ các
buổi lễ tưởng niệm 40 năm ngày Hồ Chí Minh qua đời, tôi muốn viết một bài về
ông, nhưng lại lười, cứ lần khân mãi. Sau đó, mở các tờ báo mạng ra, cứ gặp mãi
những bài viết về ông Minh (tôi không thích gọi ông là ông Hồ, nghe nó vô duyên
làm sao!) lại đâm bực.
Bực, khi đọc những bài lải nhải khen ngợi ông. Bực cả khi đọc
những bài chửi bới ông nữa.
Hầu hết các bài khen tụng hay chửi bới ông Minh đều có điểm
giống nhau: Chúng đều tập trung vào đời tư của ông. Lại là những khía cạnh nhí
nhách nhất trong đời tư của ông.
Người chửi, chửi thậm tệ. Theo họ, ông Minh là một kẻ giả dối.
Giả dối ở mọi mặt. Tự mình viết sách khen mình… khiêm tốn và tài giỏi rồi ký tên
khác (Trần Dân Tiên) rồi bắt dân chúng học tập là một sự giả dối. Gặp chị ruột,
bà Nguyễn Thị Thanh, người chị duy nhất còn sống sót sau mấy chục năm xa cách
mà vẫn hờ hờ hững hững để giữ tiếng vô tư và chí công là một sự giả dối. Nhưng
giả dối nhất là có vợ rồi, lại là vợ Tàu nữa (Tăng Tuyết Minh), mà cứ giấu biệt.
Có bồ (Nông Thị Xuân) cũng giấu giấu giếm giếm như mèo giấu cứt. Cuối cùng, bồ
bị đàn em hãm hại cũng không dám mở miệng cứu giúp hay can thiệp. Nghĩa là một
kẻ vừa giả dối lại vừa tàn nhẫn và hèn hạ.
Người khen, khen ông biết quan tâm và hy sinh cho người
khác. Quan tâm đến đời sống cơ cực của dân chúng: Mỗi bữa, ông ăn ít hơn một
chút để dành mớ gạo thừa ấy cho “đồng bào”. Quan tâm đến giấc ngủ của từng người
bộ đội: Nửa đêm dậy đi dém mùng cho từng người. Quan tâm đến nỗi khách phụ nữ đến
thăm, ông hỏi ngay là có mắc đái không để ông chỉ nhà vệ sinh cho!
Trong cuốn Hồi ký được phổ biến rộng rãi trên internet, Nguyễn
Đăng Mạnh kể, nguyên văn:
"Năm 1965, Mỹ
cho không quân ra đánh phá miền Bắc. Cầu Hàm Rồng, Thanh Hoá, là một trọng điểm
oanh tạc của chúng. Anh chị em dân quân Nam Ngạn, Hàm Rồng phối hợp cùng với
pháo binh tải đạn và bắn máy bay giặc. Nổi lên có hai nữ dân quân được tuyên
dương công trạng xuất sắc: Ngô Thị Tuyển và Nguyễn Thị Hằng.
Năm ấy, tôi phụ
trách một đoàn sinh viên Đại học Sư phạm Vinh ra thực tập ở trường Lam Sơn,
Thanh Hoá, sơ tán ở ngoại ô thị xã. Tôi đưa mấy sinh viên Văn ra gặp Nguyễn Thị
Hằng ở nhà riêng. Hằng là một cô gái quê mà rất trắng trẻo, cao ráo. Cô cho xem
bức hình chụp mặc quân phục trông rất đẹp đẽ, oai phong. Cô khoe vừa được ra Hà
Nội gặp Bác Hồ. Lần đầu tiên ra Hà Nội, đi đâu cũng có một anh cảnh vệ hay công
an đưa đi. Hành trình qua rất nhiều chặng. Đến mỗi chặng, anh dẫn đường lại bảo,
cô chờ ở đây, người khác sẽ đưa đi tiếp. Chặng cuối cùng, anh dẫn đường nói, cô
ngồi đây, Bác xuống bây giờ. Một lát ông Hồ tới. Ông không vội hỏi han gì về
thành tích chiến đấu của Hằng. Câu hỏi đầu tiên của vị Chủ tịch nước là: “Cháu
có buồn đi tiểu, Bác chỉ chỗ cho mà đi.”
Câu chuyện của
Nguyễn Thị Hằng về chủ tịch Hồ Chí Minh hôm đó, tôi nhớ nhất chi tiết này. Chi
tiết rất nhỏ nhưng nói rất nhiều về con người Hồ Chí Minh."
Thực tình, tôi không quan tâm đến cả những lời khen lẫn những
tiếng chê như thế.
Theo tôi, những chuyện ấy, ngay cả khi đúng sự thực, cũng
không ảnh hưởng gì mấy đến vị thế của ông Minh với tư cách một chính khách và một
lãnh tụ.
Một cái nhìn có tính chuyên nghiệp đòi hỏi chúng ta không được
lẫn lộn giữa các phạm trù. Một ông thánh làm chính trị tồi thì cũng vẫn là một
chính khách tồi. Ngược lại, một tên lưu manh làm chính trị giỏi, biết cách sử dụng
quyền lực cho những mục tiêu lớn và tốt, thì cũng vẫn là một chính khách giỏi.
Tôi thích dân Mỹ ở chỗ đó. Nhớ, trong thập niên 1990, họ, một mặt, lên án cái tật
hay cởi quần bậy của Tổng thống Bill Clinton, nhưng mặt khác, lại ủng hộ các
chính sách của ông, các chính sách, theo họ, có lợi cho nước Mỹ. Với họ, hai
khía cạnh đời tư và công việc khác hẳn nhau.
Ở Việt Nam, chúng ta cứ hay lẫn lộn mọi thứ. Không phải chỉ
với Hồ Chí Minh mà cả với Ngô Đình Diệm hay Bảo Đại trước đó nữa, người ta cũng
hay tập trung vào đời tư mà rất ít khi quan tâm đến chính sách của họ, với tư
cách là những nguyên thủ của một đất nước.
Trong khi đó, ở cương vị của họ, chính các chính sách mới là
những yếu tố đáng bàn, thậm chí, là những yếu tố duy nhất đáng bàn vì chúng có ảnh
hưởng đến cả hàng chục, thậm chí, hàng trăm triệu người, có khi từ thế hệ này đến
thế hệ khác. Ông Minh có nhịn ăn mỗi ngày vài chén cơm thì cũng chỉ nuôi được,
may lắm, một con chó; nhưng nếu ông có chính sách kinh tế đúng đắn và hiệu quả
thì cả hàng chục triệu người được tha hồ ăn no và ăn ngon. Ông có hàng tá bồ
nhí thì cũng chỉ làm mấy chục người ấy khổ nhưng nếu ông có chính sách về gia
đình và phụ nữ đúng đắn và có hiệu quả thì hàng chục triệu phụ nữ tránh được cảnh
bị lợi dụng, lạm dụng và bạo hành. Ông có hỏi hết người này đến người khác có mắc
tiêu mắc tiểu không để ông chỉ nhà vệ sinh cho thì cũng giải quyết được nhu cầu
của một số người nhưng nếu ông có chính sách đúng đắn và có hiệu quả về xây dựng
cơ sở hạ tầng và văn hoá tiếp dân thì không ở đâu, kể cả ở các văn phòng uỷ ban
nhân dân từ trung ương xuống địa phương hay các tụ điểm công cộng, từ nhà ga đến
bến xe, từ trường học đến công viên, dân chúng lại phải chịu cảnh nhịn đái nhịn
ỉa hay phải chịu đựng mùi hôi thối đến kinh người như họ từng chịu đựng cả
trong hơn nửa thế kỷ vừa qua.
Một nhà lãnh đạo không cần những cái tốt lặt vặt. Thậm chí
có khi cái gọi là tốt ấy lại còn phản tác dụng. Tại Úc, nhiều chính khách bị
dân chúng mất tín nhiệm chỉ vì quá tốt bụng. Đứng trước Quốc Hội, nghe báo cáo
về sự khốn cùng của thổ dân, họ khóc; nghe tin thiên tai đâu đó, họ rơm rớm nước
mắt. Dân chúng cảm động ư? Ừ, thì họ cũng cảm động. Nhưng khi được hỏi sự cảm động
ấy có ảnh hưởng đến lá phiếu của họ trong các cuộc bầu cử hay không, phần lớn đều
lắc đầu quầy quậy: Không. Nhiều người còn cho đó là sự yếu đuối không những
không cần thiết mà còn có hại. Người ta chờ đợi ở lãnh tụ một cái đầu lạnh, lúc
nào cũng bình tĩnh cân nhắc tính toán chuyện lợi hại gần xa chứ không cần những
người quá dễ xúc động và chỉ biết phản ứng theo tình cảm như thế.
Bởi vậy, đánh giá một người làm chính trị, chúng ta chỉ cần
tập trung vào chính sách của họ.
Với ông Minh, cũng vậy.
Trước hết, cần phân biệt ở ông Minh có hai khía cạnh: một
nhà cách mạng và một nhà lãnh tụ.
Với tư cách nhà cách mạng, ông Minh có thể vấp phải một số
sai lầm, nhưng nói chung, các chính sách ông đưa ra nếu không đúng đắn thì ít
nhất cũng có hiệu quả. Nhờ đó, ông trở thành nhà cách mạng thành công nhất ở Việt
Nam trong thế kỷ 20: Ông đánh đuổi được thực dân Pháp và ông giành được chính
quyền vào tay đảng của ông.
Không đồng ý với ông, thậm chí, căm thù ông, người ta cũng
không thể phủ nhận những thành công vang dội ấy. Ông đã thành công ở chỗ tất cả
các nhà cách mạng khác, trước ông, từ các nhà Cần Vương đến các nhà Duy Tân, từ
Phan Bội Châu đến Phan Châu Trinh và tất cả các nhà cách mạng quốc gia khác, đều
thất bại.
Với tư cách một lãnh tụ, hơn nữa, lãnh tụ tối cao, vừa là Chủ
tịch đảng vừa là Chủ tịch nước, ông Minh có những chính sách đúng và sai, những
chính sách có hiệu quả đồng thời cũng có những chính sách hoàn toàn vô hiệu,
hơn nữa, cực kỳ tai hại.
Đánh giá những chính sách ấy cần có công phu nghiên cứu và sự
công tâm nhất định. Đó là công việc của giới sử học. Đã có nhiều sử gia làm điều
đó. Một số người làm rất tốt. Nhưng công việc ấy sẽ còn kéo dài mãi. Nếu lịch sử
là những gì luôn luôn được viết lại, việc đánh giá những chính khách lớn như
ông Minh sẽ không bao giờ hoàn tất cả. Mỗi thời đại hay mỗi thế hệ, trong tương
lai, sẽ lại tiếp tục tìm kiếm và đặt lại vấn đề về sự nghiệp của ông.
Trong bài này, tôi chỉ xin góp một ý nhỏ: Nói đến chính sách,
cần phân biệt chính sách có tính giai đoạn và chính sách có tính dài hạn.
Trong số các chính sách dài hạn, chính sách quan trọng và
căn bản nhất là chính sách liên quan đến thể chế.
Trong vấn đề thể chế, có hai khía cạnh quan trọng và căn bản
nhất: ý thức hệ và cơ chế tổ chức guồng máy nhà nước.
Về phương diện ý thức hệ, ông Minh chọn con đường xã hội chủ
nghĩa. Đó là một lựa chọn có tính lịch sử; và vì có tính lịch sử, nó vừa là
trách nhiệm của ông vừa không thuộc trách nhiệm của ông.
Nhưng việc lựa chọn cơ chế tổ chức guồng máy nhà nước thì
hoàn toàn nằm trong tay ông. Chính ông là người quyết định nó, xây dựng nó và
điều hành nó một thời gian dài. Có thể nói cái cơ chế ấy hoàn toàn là sản phẩm
của ông. Là đứa con của ông.
Cái cơ chế ấy như thế nào?
Thời gian đã đủ dài để người ta nhận ra tất cả các khuyết điểm
của nó. Trong đó, khuyết điểm đầu tiên là nó quá cứng nhắc, làm tê liệt hết mọi
khả năng sáng tạo của ngay cả những người sáng suốt, nhiệt tình và nhiều quyền
thế nhất.
Nghe nói, lúc còn tại chức, Phạm Văn Đồng thường than thở là
trên thế giới không có ai làm Thủ tướng lâu như ông, và cũng không có ai làm Thủ
tướng mà bất lực như ông.
Lại cũng nghe nói, trong một chuyến công du sang Úc cách đây
khoảng trên dưới mười năm, Phan Văn Khải, lúc ấy đang là Thủ tướng, giữa một buổi
họp mặt với giới trí thức Việt kiều, kể, đại khái, là: “Nhiều vị lãnh đạo Tây
phương cứ hay nói về Việt Nam thế này thế nọ. Nhưng cứ cho họ làm Thủ tướng ở
Việt Nam thử xem họ làm sao. Có khi họ làm chưa tới một ngày đã phải chạy làng
rồi. Việt Nam mình nó phức tạp lắm chứ đâu đơn giản như họ tưởng. Ở Việt Nam
đâu phải là Thủ tướng thì có thể làm được mọi việc!”
Lại cũng nghe nói nữa, vào những năm cuối đời, tuy ông Minh
vẫn còn tại vị, nhưng thực quyền thì đã lọt hết vào tay của Lê Duẩn và Lê Đức
Thọ. Ông muốn làm nhiều chuyện nhưng đành bất lực. Tôi chẳng biết lời đồn ấy thực
hư thế nào. Nhưng nếu đúng, ông Minh đã bị chính cái guồng máy ông lập ra nghiền
nát; ông đã bị chính đứa con ông sinh ra quay lại ăn thịt ông.
Cái cơ chế chính quyền ở Việt Nam, một mặt, loại trừ khả
năng sáng tạo, mặt khác, lại tạo cơ hội cho cái Ác, cái Tham và cái Ngu tha hồ
nảy nở. Trong cái cơ chế ấy, không ai có thể làm điều đúng hay điều tốt được,
nhưng mọi đứa ác, mọi đứa tham và mọi đứa ngu đều có thể dễ dàng tác oai tác
quái.
Cái Ác, cái Tham và cái Ngu thì ở đâu cũng có. Không có một
lãnh tụ nào có thể loại trừ hay tiêu diệt chúng hết được. Nhưng trong một cơ chế
tốt, chúng luôn luôn bị kiềm chế; nếu có bộc lộ, chỉ bộc lộ một cách rụt rè và
lén lút; và vì rụt rè và lén lút nên không thể trở thành phổ biến, hơn nữa, lúc
nào chúng cũng đối diện với nguy cơ bị phát hiện và bị trừng phạt.
Trong cái cơ chế chính quyền do ông Minh sáng lập, không có
những sự kiềm chế và kiểm soát. Cấp lớn có cái Ác, cái Tham và cái Ngu lớn. Cấp
nhỏ thì có cái Ác, cái Tham và cái Ngu nhỏ. Ở đâu chúng cũng nghênh ngang hoành
hành được. Dân chúng không những bị bịt miệng mà còn bịbịt cả tai nữa.
Bởi vậy, bất cứ cái Ác, cái Tham và cái Ngu nào ở Việt Nam
lâu nay cũng đều có một phần trách nhiệm của ông Minh.
Người ta hay hỏi: Liệu ông Minh có biết những người bị giết
oan trong cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc vào giữa thập niên 1950 không? Có
biết những vụ trù dập dã man đối với nhóm Nhân Văn Giai Phẩm không? Có biết các
vụ giết người tập thể ở Huế trong trận Mậu Thân không?
Với tôi, đó là những câu hỏi vớ vẩn. Biết hay không biết,
chúng cũng thuộc về trách nhiệm của ông Minh. Biết, ông có tội. Không biết, ông
có lỗi. Khi cái lỗi gây thành tội ác: Cái lỗi trở thành cái tội.
Trong bất cứ một hành vi tham nhũng công khai nào, bất cứ một
hành động chà đạp nhân quyền và dân chủ nào ở Việt Nam hiện nay, cho dù được thực
hiện bởi một tên công an cấp phường, cấp xã, cũng đều có bàn tay ông Minh trong
đó.
Ông Minh đã chết lâu rồi nhưng cái cơ chế ông tạo ra vẫn còn
đó. Nó còn đó và nó tiếp tục tạo cơ hội và cung cấp phương tiện cho những sự
tàn ác, tham lam và ngu xuẩn. Để cho chúng tha hồ hoành hành và tàn phá đất nước,
cái đất nước mà ông bỏ gần cả đời để dành lại từ trong tay thực dân Pháp.
Đứng trước cái di sản tệ hại khổng lồ ấy, những chuyện ông
còn tân hay có vợ, chuyện ông nhịn ăn để đồng cam cộng khổ với dân chúng hay
lúc nào cũng phì phèo điếu thuốc lá của Mỹ, chuyện ông có nung gạch để tránh cái
rét ở Paris lúc còn trẻ hay không… chỉ là những chuyện tầm phào.
Hết sức tầm phào.
(Bài này đã đăng trên Nguyễn Hưng Quốc blog trên đài VOA;
sau, in trong cuốn Phản tỉnh và Phản biện do Văn Mới xuất bản 2012 và Người Việt
tái bản 2013)
Theo FB Nguyễn Hưng Quốc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét