Phạm Trần
Sau 47 năm Lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam, ông Hồ Chí Minh
qua đời (1969-2016), lớp người tự nhận là hậu duệ hay cháu ngoan của ông, bao gồm
lãnh đạo và đảng viên, từ thế hệ trước qua thế hệ sau, vẫn loay hoay từ “học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” sang “học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Nhưng tại sao lại thay đổi và thay đổi để làm gì? Bởi vì,
theo Nghị quyết Trung ương 4/XII, ngày 30/10/2016: “Công tác xây dựng Đảng còn
không ít hạn chế, khuyết điểm. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn, giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh chưa đáp ứng yêu cầu. Nội dung sinh hoạt đảng ở nhiều nơi còn đơn điệu,
hình thức, hiệu quả chưa cao. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ
chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu. Công tác tổ chức, cán bộ
và quản lý cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có
người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan
liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám
sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái…”
Sở dĩ có tình trạng tụt hậu này vì mỗi ngày đảng viên càng
“sáng mắt sáng lòng” khi nhận ra thực tế diễn biến trên thế giới trong cuộc sống
hằng ngày đã chứng minh Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh đã
lạc hậu và đảng đang đi lạc đường.
Đảng quyết tâm chống tham nhũng thì tham nhũng mỗi ngày thêm
lớn mạnh. Đảng bắt kê khai tài sản thì khai, nhưng của chìm của nổi thì đã có
người khác đứng tên dùm. Vì vậy, trong 1 triệu người khai, chẳng có ai bị khám
phá là khai gian. Nhưng làm sao một cán bộ cấp bậc hạng trung mà lại có nhiều
nhà, nhiều đất, xe hơi, có tiền dư gửi con ra nước ngoài học thì nhà nước lại
không dám đụng tới! Nhân dân không được quyền đòi xem tờ khai vì là chuyện “quốc
gia đại sự đóng dấu mật” để cất vào học tủ!
Ngoài ra khi Đảng bảo phải tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân thì
“lợi ích nhóm” mỗi ngày một lan rộng trong mọi ngành nghề và cơ quan trên khắp
lãnh thổ. Đảng bảo người đứng đầu phải làm gương thì càng có nhiều lãnh đạo cấp
cao dao động, coi dân như rơm rác và chỉ biết tìm cách làm giầu cho bản thân là
chính. Đạo lý và tư tưởng cách mạng là những thứ xa xỉ phẩm và lỗi thời đối với
họ.
TỬ DI CHÚC ĐẾN THỰC TẾ
Những khuyết tật này vẫn tồn tại vì đảng của ông Hồ chưa hết
độc tài, độc đóan và độc diễn trên mọi lĩnh vực và trên lưng người dân.
Trong khi nhân dân, chủ nhân của đất nước, vẫn chỉ là tầng lớp
bị trị để phục vụ “đấy tớ của nhân dân” là cán bộ, đảng viên.
Thực tế đã chứng minh tất cả các tầng lớp cai trị đều không
làm theo lời dặn trong Di chúc ông Hồ để
lại. Ông bảo: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh
tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết
và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.”
Nhưng 47 năm sau, từ khi ông Hồ qua đời, Nghị quyết 4/XII vẫn
viết trong điểm số 5: “Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết
điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật.
Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy
sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống,
bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.”
Với tư cách nhố nhăng và kịch cỡm như thế thì tất nhiên kết
qủa phải có từ đội ngũ cán bộ, đảng viên là:
1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin
vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng
vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
2) Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai
trái.
3) Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận
và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
4) Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng;
sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm,
thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu
quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm
vụ được giao.
(5 đã ghi ở trên)
6) Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít;
nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác;
nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu.
7) Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu
học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.
8) Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ
chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác; chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc
dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm
chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm
cho cá nhân một cách không lành mạnh.
(Trích Nghị quyết 4/XII, ngày 30/10/2016)
Về con người hiện nay của đảng, Nghị quyết không ngần ngại
nhìn nhận trong đảng đang diễn ra:
1) Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi;
chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ,
so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.
2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội
bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị,
tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều
hành.
3) Kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.
4) Mắc bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, che dấu khuyết
điểm, thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi;
“chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu”.
5) Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu
kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình;
thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính
đáng của nhân dân.
6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất
thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên…; đầu tư công
tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt
quy định; chi tiêu công quỹ tùy tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn
nhân lực, phí phạm thời gian lao động.
7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với
doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền
hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.
8) Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền,
chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội… Sử dụng quyền lực được
giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ,
quyền hạn của mình để trục lợi.
9) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc
tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm
thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức
gia đình và xã hội.”
Bấy nhiêu tội lỗi vẫn chưa đủ, Nghị quyết 4/XII còn báo cáo
đã và đang có tình trạng đảng viên: “Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập
trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng… đòi thực hiện thể chế “tam
quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”… Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước… Hạ thấp, phủ nhận
những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc
lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước….”
Ngoài ra cũng còn có tình trạng: “Phủ nhận vai trò lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi “phi
chính trị hoá” quân đội và công an… Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
báo chí, văn học – nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo
đường lối của Đảng; cổ súy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng
mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch
lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.”
Nhưng thế nào là “dân chủ cực đoan” ? Cực đoan, theo quan niệm
của Ban Tuyên giáo đảng là kiểu “dân chủ của chủ nghĩa Tư bản”. Đảng CSVN chỉ
muốn “tập trung dân chủ” để kiểm soát và ban phát tùy tiện. Đảng cũng chỉ muốn
dân chủ trong nội bộ đảng, nhất là khi có sinh hoạt đảng bộ. Tiêu chuẩn thiểu số
phục tùng đa số là nguyên tắc bất di bất dịch, dù phe đa số là những người toa
rập bè phái để lấy thịt đè người.
Tuy nhiên đảng lại không chấp nhận dân chủ trong dân nên đã
ngăn chặn việc thành lập các tổ chức xã hội dân sự và hội đoàn không chịu chui
vào rọ kiểm soát của Mặt trận Tổ quốc để làm tay sai cho đảng.
Vì vậy, đảng kiên quyết chống đa nguyên, đa đảng để độc quyền
cai trị; không cho tư nhân ra báo để dành độc quyền thông tin tuyên truyền. Họ
đội mũ “phản động” và “tay sai của các thế lực thù địch” cho những ai đòi làm
ngược lại.
PHẢN LẠI ÔNG HỒ
Nhưng với những chứng bệnh nan y đang hòanh hành trong cơ thể
đảng ghi trong Nghị quyết 4/XII mới ban hành ngày 30/10/2016, một lần nữa Lãnh
đạo đảng CSVN đã thất bại trong công tác “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”, theo chỉ thị của Bộ Chính trị (Số: 05-CT/TW, ngày 15
tháng 5 năm 2016).
Càng nghiêm trọng hơn, đám đảng viên kế thừa hay các cháu
ngoan của ông Hồ, từ 47 năm qua, đã nhổ toẹt vào lời dạy trong Di chúc của ông,
theo đó, ông dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư.”
Ngoài ra ông Hồ cũng chỉ mới thỏa mãn khi Việt Nam đã thống
nhất, nhưng các “mong muốn cuối cùng” của ông như “hòa bình, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh” hãy còn xa vời. Bởi vì, dù Việt Nam nay không còn tiếng súng và
bóng quân đội nước ngoài trên lãnh thổ, nhưng lại hòan tòan lệ thuộc vào Trung
Quốc để có hòa bình và độc lập gỉa tạo.
Thực tế tình hình ngày nay đã chứng minh, quân đội Trung Quốc
vẫn đang lăm le “dạy cho Việt Nam một bài học nữa”, cả ở biên giới lẫn Biển
Đông.
Để tồn tại, Việt Nam Cộng sản phải chấp nhận làm “chư hầu
kinh tế” của Trung Quốc. Hà Nội cũng phải ngậm đắng nuốt cay để cho hàng chục
ngàn công nhân người Hoa và các Công ty người Tầu xâm lăng Việt Nam và chiếm
công ăn việc làm của người Việt.
Nguy hiểm hơn, Việt Nam còn phải để cho người Hoa di cư tự
do sang nước Việt lập làng, dựng phố, lập gia đình và sinh con trước nguy cơ bị
đồng hoá lúc nào không hay. Các Công ty người Hoa cũng đã ưu tiên chiếm các vị
trí chiến lược dọc theo bờ biển, trên Tây Nguyên, dọc biên giới Việt-Trung và đồng
bằng sông Cửu Long.
Vì vậy, về lĩnh vực kinh tế, bản đồ nước Việt ngày nay đã biến
thành tấm da con báo có nhiều chấm đen của vết chân người Hoa.
Như vậy thì có trái với lời nói lịch sử của ông Hồ “Không gì
qúy hơn độc lập, tự do” không ?
Gía mà ông có thể sống lại để coi đám hậu duệ và các cháu
ngoan của ông đã làm nên trò trống gì sau 47 năm ông ra đi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét